Cần làm gì để ngành chè Việt Nam vươn xa, nâng cao giá trị. |
Xuất khẩu chè tăng cả về khối lượng, giá trị
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè của Việt Nam tháng 10/2024 tăng trở lại, đạt 14,47 nghìn tấn, trị giá hơn 26 triệu USD, tăng 10,6% về lượng và tăng 13,7% về giá trị so với tháng 9/2024; tăng 20,2% về lượng và tăng 19,9% về giá trị so với tháng 10/2023.
Giá bình quân chè xuất khẩu trong tháng 10/2024 đạt 1.817 USD/tấn, tăng 2,9% so với tháng 9/2024, nhưng giảm nhẹ 0,3% so với tháng 10/2023.
Tính chung 10 tháng năm 2024, xuất khẩu chè của Việt Nam đạt hơn 120 nghìn tấn, trị giá gần 212 triệu USD, tăng 28,3% về lượng và tăng 30,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023.
Giá bình quân chè xuất khẩu trong 10 tháng năm 2024 đạt 1.762 USD/tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính chung 10 tháng năm 2024, xuất khẩu chè sang các thị trường chính tăng so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể, Pakistan tăng 17,6% về lượng và tăng 27,2% về giá trị. Thị trường Đài Loan tăng 2,5% về lượng và tăng 6,7% về giá trị. Trung Quốc tăng mạnh 249,5% về lượng và tăng 114,5% về giá trị. Indonesia tăng 56,2% về lượng và tăng 60,3% về giá trị… Ngược lại, xuất khẩu sang thị trường Iraq giảm mạnh 49,5% về lượng và giảm 46,3% về giá trị.
Cần thay đổi tư duy để tìm con đường mới cho chè Việt
Cần thay đổi tư duy người làm chè. |
Hiện Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè, với sản phẩm được xuất khẩu đến hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dù đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, khi nhìn vào bức tranh chung của ngành nông nghiệp sẽ dễ dàng nhận thấy, 10 tháng đầu năm, trong khi xuất khẩu rau quả, cà phê đã có kim ngạch vượt trên 5 tỷ USD/năm, thì mặt hàng chè chỉ khoảng 200 - 300 triệu USD/năm. Hơn nữa, giá chè xuất khẩu bình quân cũng chỉ đạt 1.750 USD/tấn, bằng 1/2 so với thế giới.
Và điều nghịch lý hơn nữa, là giá chè xuất khẩu hiện chỉ bằng 1/3 so với giá chè tiêu thụ trong nước. Hiện giá bán chè trong nước dao động từ 120.000 đồng đến 800.000 đồng/kg, tùy thuộc vào loại trà và thương hiệu.
Lý giải về giá bán chè xuất khẩu quá thấp so với chè tiêu thụ trong nước, Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết, chè xuất khẩu thường chỉ là chè thô, đóng trong bao lớn, không có nhãn mác. Các đối tác nhập khẩu mua về sau đó đóng gói nhỏ, dán nhãn mác của họ rồi đem đi tiêu thụ. Do đó, người tiêu dùng chè ở các nước không biết đó là chè có xuất xứ từ Việt Nam.
Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết, thế giới nhìn nhận chè Việt Nam là thị trường giá rẻ và tìm kiếm lợi nhuận tại đây. Trong khi đó, người làm chè đang ở tình trạng dễ mua, dễ bán nên không trau chuốt, tự làm mới mình, mà chỉ tập trung sản xuất để đạt thỏa thuận mua bán trước mắt. Đây là lý do chè Việt Nam dễ rơi vào “bẫy giá rẻ” của thế giới.
“Tiêu thụ nội địa, chúng ta làm rất tốt, như tại các tỉnh Thái Nguyên, Hà Giang, Sơn La, Thái Nguyên, giá bán chè ở mức 7 USD - 20 USD/kg. Như vậy, hòa chung với giá tiêu thụ nội địa, giá chè trung bình khoảng 4 USD/kg. Trong khi đó, giá chè xuất khẩu bình quân chỉ là 1,75 USD/kg”, ông Long nêu thực tế.
Bên cạnh đó, khi phân tích vấn đề thị trường, EU hiện là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất thế giới, tuy nhiên Việt Nam lại chưa thể hiện được dấu ấn lớn tại đây, 4 tháng đầu năm, trị giá nhập khẩu chè của EU từ Việt Nam chỉ chiếm 0,19% tổng trị giá nhập khẩu.
Trong khi đó, EU đang ngày càng đặt ra nhiều quy định hơn về kinh tế xanh, sạch, đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải cập nhật thông tin để đáp ứng đúng nhu cầu tiêu dùng tại thị trường này.
Cùng với đó, tại thị trường xuất khẩu lớn nhất của chè Việt là Pakistan thì tỷ trọng nhập khẩu chè của Pakistan từ Việt Nam vẫn còn thấp và đang có xu hướng giảm do nhiều rào cản, đặc biệt là thiếu thông tin thị trường, nên doanh nghiệp chè Việt Nam khó tiếp cận và khó có những đơn hàng lớn với các doanh nghiệp Pakistan.
Do đó, ông Long cho rằng phải thay đổi tư duy để tìm con đường thương mại mới cho chè Việt. Ông Long cho rằng hiện nay tại Việt Nam, có nhiều nhà máy nhỏ chắp vá đang rơi vào bẫy giá rẻ do thời gian dài chưa có đổi mới.
“Vì vậy, để khắc phục hiện trạng này, cần tập trung liên kết doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân, chính quyền địa phương. Tất cả cần vào cuộc để khai thác tiềm năng, bỏ tư duy dìm giá, phân tán thị trường”, ông Long kiến nghị.
Theo ông Đoàn Anh Tuân, Giám đốc Công ty TNHH Thế hệ mới, trong giai đoạn hiện nay, người sản xuất, chế biến và thương mại chè cần thay đổi về cách tư duy. “Cây chè không còn là cây xóa đói giảm nghèo nữa mà phải trở thành cây làm giàu”, ông Tuân nhấn mạnh.
PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Hội Làm vườn Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, khẳng định: “Một sản phẩm chè cao cấp luôn được gắn với giống”.
Hiện nay, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đang có hai loại giống chè xuất xứ từ Việt Nam, dư sức cạnh tranh với các giống chè đặc sản trên thế giới. Đó là giống chè Hương Bắc Sơn được tạo ra bằng lai hữu tính, mẹ là giống Kim Tuyên với bố là giống chè Trung Du. Chè VN15 được lai hữu tính giữa mẹ là giống Saemidori với bố là giống Shan Cù Dề Phùng. Hai loại chè này đã được chuyên gia Đài Loan mà Viện mời về đánh giá cao vì chất lượng tuyệt vời.
“Trước đây, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc tập trung vào hướng nghiên cứu giống năng suất cao, chất lượng tốt để phát huy kinh tế và nâng cao thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, 10 năm trở lại đây, chúng tôi tập trung phát triển giống có chất lượng cao để đáp ứng sản xuất chè cao cấp”, ông Toàn nhấn mạnh.