Xuất khẩu chè tăng mạnh trở lại, nhiều thị trường đầy triển vọng Cách nào để chè Việt mở rộng miếng bánh thị phần? Ngành chè Việt Nam đứng trước cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu |
Chỉ 6.000 đồng/kg chè búp, giá cà phê, sầu riêng đang tăng dần: Đây là vấn đề cần trăn trở. |
Chỉ khoảng 6.000 đồng/kg chè búp
Theo ông Lê Quốc Doanh, cây chè là cây trồng có vị trí đặc biệt trong cơ cấu cây trồng của ngành nông nghiệp, là cây công nghiệp dài ngày trọng điểm và có phát tích ở Việt Nam, gắn bó với người dân Việt Nam. Trong khi đó, cây chè chiếm diện tích lớn ở khực trung du, miền núi, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, môi trường và xã hội.
Nhìn nhận lại sự phát triển của ngành chè những năm qua, nguyên Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho rằng, cây chè có sự phát triển lớn, nhất là trong vòng 2 năm gần đây. Ông Doanh nêu số liệu, diện tích chè năm 2000 chỉ đạt khoảng 70.000ha nhưng đến nay đã tăng lên đến 125.000 ha, trong khi năng suất chè năm 2005 đạt 4,9 tấn/ha hiện đã tăng lên đến 10 tấn/ha, tăng gấp hơn 2 lần. Giá bán tăng (nội tiêu và xuất khẩu) từ 1 USD/kg lên 1,74 USD -1,8 USD/kg.
Theo ông Doanh, kết quả này là sự cố gắng chung. Để đóng góp như vậy, có bộ giống và sự đóng góp của viện chuyên ngành với lực lượng khoa học mạnh mẽ, tới hơn 20 tiến sĩ chuyên về chè; canh tác tiến bộ.
Tuy nhiên, còn có một số vấn đề ngành chè đang đối mặt như giá người dân được hưởng từ bán cây chè rất thấp, bình quân chỉ khoảng 6.000 đồng/kg chè búp. Trong khi đó, giá bán cây ăn quả, cà phê… đang tăng dần. Đây là một vấn đề cần trăn trở.
Nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT đặt vấn đề, cây chè là cây truyền thống và từng được bao cấp một cách triệt để về doanh nghiệp và đầu ra, như vậy đây có phải là nguyên nhân khiến “ngại đổi mới”?
Hiện đã có những điểm rất sáng, nhưng vì với cùng một cơ cấu giống, vì sao năng suất chè, giá bán ở các vùng có sự chênh lệch lớn. Cần làm rõ hơn câu chuyện này để tính đến những bước phát triển tiếp theo.
Giải thích rõ ràng hơn về giá chè, ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho rằng, nhìn ở mức chung, chè Việt Nam xuất khẩu có giá rẻ nhưng vẫn cao hơn giá thế giới. Theo ông Long, thế giới nhìn nhận thị trường chè Việt Nam là thị trường giá rẻ và tìm kiếm lợi nhuận tại đây. Trong khi đó, người làm chè đang ở tình trạng dễ mua, dễ bán nên không trau chuốt, làm mới mình mà chỉ tập trung sản xuất để đạt thỏa thuận mua bán trước mắt. Đó là lí do vì sao, chè Việt Nam dễ rơi vào “bẫy giá rẻ” của thế giới.
“Mảng nội tiêu chúng ta làm rất tốt, như tại các tỉnh Thái Nguyên, Hà Giang, Sơn La, Thái Nguyên, có loại chè bán thấp nhất ở giá bình quân 7 USD/kg nhưng cũng có loại chè bán với giá khoảng hơn 20 USD. Như vậy, hòa chung với giá nội tiêu, giá chè trung bình khoảng 4 USD/kg”, ông Long làm rõ vấn đề.
Hiện nay, có nhiều nhà máy nhỏ chắp vá đang rơi vào bẫy giá rẻ do thời gian dài chưa có đổi mới: nông nghiệp phá vỡ sản xuất tập trung, nông công nghiệp còn ít. Và họ lại tiếp tục tìm mua búp rẻ. Như vậy, để khắc phụ hiện trạng này, cần tập trung liên kết doanh nghiệp, HTX, nông dân, chính quyền địa phương. Tất cả cần vào cuộc để khai thác tiềm năng, bỏ tư duy “dìm giá”, phân tán thị trường.
Cần thay đổi về cách tư duy
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục trồng trọt phát biểu tại Diễn đàn. |
Ông Đoàn Anh Tuân, Giám đốc Công ty TNHH Thế Hệ Mới cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, người sản xuất, chế biến và thương mại chè cần thay đổi về cách tư duy. Người lao động tham gia trong chuỗi giá trị chè có nhiều cơ hội việc làm, gia tăng thu nhập.
“Cây chè không còn là cây xóa đói giảm nghèo nữa mà đã thực sự trở thành cây làm giàu”, ông Tuân bày tỏ.
Là đơn vị xuất khẩu chè lớn của cả nước, đơn vị của ông Tuân hiện tập trung vào việc nâng cao giá trị gia tăng. Đồng thời, đầu tư trang thiết bị, nâng cao công nghệ sản xuất túi lọc, đảm bảo công nghệ sản xuất chất lượng cao nhất. Đặc biệt là nói không với các chất BVTV không được phép.
Bên cạnh việc sản xuất chè theo cách truyền thống, doanh nghiệp tin rằng một số sản phẩm phụ trợ như làm bột matcha… ngày càng được thị trường đón nhận. Điều này đặt ra những vấn đề về tư duy sản xuất gắn với nhu cầu thị trường.
Song hành với đầu tư công nghệ, Giám đốc Tuân dự kiến sẽ phát triển các sản phẩm như du lịch sinh thái tại các vùng trồng chè. Ông tin rằng, Việt Nam có nhiều sản phẩm độc đáo như chè sen được ướp độc đáo và tinh tế, đủ khả năng đưa lên tầm quốc bảo với giá trị cao hơn.
Giống là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm chè. Theo TS Nguyễn Thị Hồng Lam, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chè, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, riêng trong giai đoạn 2019 – 2023, Viện đã chọn tạo bộ 16 giống chè mới và được nhiều địa phương lựa chọn để chuyển đổi sản xuất. Bên cạnh đó, Viện cũng công bố các tiến bộ kỹ thuật và quy trình canh tác chè bền vững, tạo ra nguyên liệu chè búp tươi đạt tiêu chuẩn an toàn, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm chè. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định diện tích chè cả nước và giúp tăng 30% năng suất chè cả nước.
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng, Cục Trồng trọt, Bộ NN-PTNT, cho rằng, để phát triển vùng sản xuất và nâng cao chất lượng chè, cần chú trọng xây dựng vùng chè an toàn, kết hợp với cơ cấu giống phù hợp, định hướng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và quy hoạch các nhà máy chế biến nhằm gia tăng giá trị. Liên kết các vùng chè đặc sản với chương trình OCOP và phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, việc tổ chức sản xuất chè an toàn và liên kết tiêu thụ cần được đẩy mạnh, cùng với nâng cao năng lực cán bộ khuyến nông và khuyến khích sự tham gia của các tổ chức chứng nhận chất lượng như Utz Certified, RFA. Nâng cao năng lực chế biến cũng là một giải pháp thiết yếu.
Về khoa học kỹ thuật, cần đầu tư công nghệ hiện đại, ứng dụng quy trình kỹ thuật phù hợp với từng loại đất, phát triển các sản phẩm chè đa dạng như chè Oolong, matcha và nước uống đóng chai từ chè. Các kỹ thuật trồng trọt an toàn, sử dụng phân hữu cơ và phương pháp phòng trừ sâu bệnh IPM cũng cần được triển khai rộng rãi.
Trong lĩnh vực thị trường và xúc tiến thương mại, ông Mạnh đề xuất đẩy mạnh thương mại điện tử và ứng dụng các công cụ kinh tế số như ngân hàng xanh, tín dụng xanh là cần thiết. Các hoạt động kết nối cung cầu, liên kết vùng sản xuất với hệ thống phân phối và tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do như CPTPP và EVFTA sẽ giúp mở rộng thị trường trong và ngoài nước, từ đó nâng cao giá trị ngành chè.
Tỷ trọng xuất khẩu chè Việt Nam sang Mỹ giảm 0,3% |
Đưa thương hiệu chè Việt Nam ra thế giới thông qua du lịch |
Thứ cây người Việt trồng nhiều, thị trường Anh nhập khẩu 53 nghìn tấn trong 6 tháng |