Cách nào để chè Việt mở rộng miếng bánh thị phần? Ảnh TTXVN |
Xuất khẩu chè 2 tháng đầu năm tăng cả lượng và trị giá
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, trong tháng 2/2024, xuất khẩu chè đạt 8 nghìn tấn, trị giá 14 triệu USD, giảm 35,5% về lượng và giảm 35% về trị giá so với tháng 1/2024, nhưng tăng 17,6% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng 2/2023.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè ước đạt 20 nghìn tấn, trị giá 35 triệu USD, tăng 50,9% về lượng và tăng 53,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 2/2024 ước đạt 7.705,5 USD/tấn, tăng 3,6% so với tháng 02/2023. Trong 2 tháng đầu năm 2024, giá chè xuất khẩu bình quân ước đạt 1.698,6 USD/tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Giá bình quân chè xuất khẩu sang các thị trường chính tăng giảm không đồng nhất, trong khi giá bình quân chè xuất khẩu sang các thị trường Pakistan, Ả rập Xê út, Hoa Kỳ, Đài Loan tăng, thì giá chè xuất khẩu bình quân sang các thị trường Trung Quốc, Malaysia, Indonesia… giảm mạnh.
Những năm qua, trong khi nhu cầu tiêu dùng chè trên thế giới đã thay đổi rất nhanh, chuyển từ các sản phẩm chè thông thường, sang các sản phẩm chè chế biến sâu, chè đặc sản. Tuy nhiên, ngành chè Việt Nam vẫn chậm nâng cao chất lượng sản phẩm, chậm đầu tư vào chế biến sâu và ít nghiên cứu đầu tư vào sản phẩm mới… đang là những nguyên nhân khiến sản phẩm chè Việt mất thế cạnh tranh.
Hiện sản phẩm chè xanh vẫn chiếm tới 94% trong tổng khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đây là sản phẩm chè cấp thấp nhất, chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp sao sấy truyền thống, chưa qua công đoạn chế biến sâu.
Trong khi đó, các sản phẩm chè phẩm cấp cao như chè đen, chè ướp hoa, chè ô long… chỉ chiếm 6% trong tổng khối lượng chè xuất khẩu. Mặc dù giá xuất khẩu các loại chè chế biến sâu này rất cao (giá xuất khẩu chè ướp hoa của Việt Nam năm 2023 đạt 2.100 USD/tấn; chè ô long xuất khẩu đạt giá 2900 USD/tấn), nhưng do lượng xuất khẩu quá thấp, nên kim ngạch xuất khẩu không đáng kể.
Về chủng loại sản phẩm chè xuất khẩu năm 2023, dẫn đầu về lượng và trị giá là chủng loại chè xanh với 57.500 tấn, trị giá 113,5 triệu USD, giảm 6,9% về lượng và giảm 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tiếp đến là chủng loại chè đen đạt 46.000 tấn, trị giá 62,4 triệu USD, giảm lần lượt 16 % về lượng và 18 % về trị giá; chè ướp hoa đạt 3.800 tấn, trị giá 8 triệu USD, giảm 4,7% về lượng nhưng tăng 6,5% về trị giá. Đáng chú ý, xuất khẩu chè ô long đạt 1.300 tấn, trị giá 3,8 triệu USD, tăng 102% về lượng và tăng 107% về trị giá so với năm 2022.
Cần đầu tư chế biến sâu, nâng cao chất lượng
Đầu tư chế biến sâu để nâng cao chất lượng chè Việt. |
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện cả nước có 120 nghìn ha diện tích trồng chè. Cả nước có 257 doanh nghiệp chế biến chè quy mô công nghiệp, tổng công suất theo thiết kế 5,2 nghìn tấn búp tươi/ngày, sử dụng 220 nghìn lao động sản xuất ra gần 200 nghìn tấn sản phẩm mỗi năm.
Trong hoạt động chế biến chè, một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại, sản xuất theo hướng đa dạng hóa sản phẩm cho nên giá trị từng bước được nâng cao. Tuy nhiên trên thực tế, sản xuất chè ở Việt Nam còn nhiều yếu kém. Việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cũng như sản xuất theo hướng hữu cơ đã được triển khai từ nhiều năm qua nhưng đến nay vẫn đạt tỷ lệ còn thấp; quản lý chất lượng giống và các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây chè ở một số địa phương còn lỏng lẻo, chế tài xử lý còn nhiều khó khăn.
Hiện sản xuất chè theo nông hộ chiếm gần 65% về diện tích, quy mô khoảng 0,2 ha/hộ; tình trạng thu gom nguyên liệu qua nhiều cấp làm tăng giá nguyên liệu đầu vào, kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu, tăng chi phí đầu tư.
Trước những bất cập trên, ông Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho rằng để nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển bền vững, thời gian tới ngành chè cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trọng tâm. Trước hết, cần tập trung nâng cao năng suất, chất lượng chè Việt Nam thông qua chuyển đổi các giống chè cũ sang các giống chè mới.
Đầu tư có trọng điểm vào công tác chế biến sâu, đặc biệt là các sản phẩm chè sau chế biến có chất lượng cao, mang lại giá trị kinh tế lớn để hình thành ngành công nghiệp chế biến chè tiên tiến tại Việt Nam; Đa dạng hóa sản phẩm chè chế biến bằng công nghệ tiên tiến. Đây là hướng đi chủ đạo đúng đắn, trên thực tế đã có những đơn vị như HTX Chế biến chè Phìn Hồ (xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang) đã khẳng định vị thế vững chắc trên thị trường nhờ hướng đi này.
Ông Triệu Văn Mềnh, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Chế biến chè Phìn Hồ cho biết: Để đáp ứng được nhu cầu thị trường xuất khẩu, HTX đã nâng công suất, đổi mới công nghệ cho phù hợp. Đặc biệt, HTX đã được đơn vị chứng nhận hữu cơ châu Âu chứng nhận gần 300ha chè tại các xã: Hồ Thầu, Tả Sử Choóng và Túng Sán (Hoàng Su Phì).
Đây chính là cầu nối để HTX xuất bán sản phẩm sang các thị trường lớn như Trung Quốc, Đài Loan, Nga và Đức... nâng doanh thu của HTX tăng khoảng 30 lần so với cách đây 10 năm, từ chỗ chỉ khoảng 500 triệu mỗi năm, nay đạt 15 tỷ đồng/năm, góp phần không nhỏ mang hương vị thơm chè Việt vươn xa...
Xuất khẩu chè Việt Nam sang Mỹ tăng cả lượng và trị giá |
Đưa thương hiệu chè Việt Nam ra thế giới thông qua du lịch |
Thứ cây người Việt trồng nhiều, thị trường Anh nhập khẩu 53 nghìn tấn trong 6 tháng |