![]() |
Quang cảnh “Diễn đàn kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ DN tiếp cận thị trường mới”, do Tạp chí Diễn đàn DN, VCCI tổ chức chiều 14/8. Ảnh: VGP/HT |
Thách thức từ rào cản và cạnh tranh toàn cầu
Tại "Diễn đàn Kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới" diễn ra ngày 14/8 tại Hà Nội, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đã cùng phân tích tình hình kinh tế và những khó khăn hiện hữu. Trong bảy tháng đầu năm 2025, kinh tế Việt Nam ghi nhận nhiều tín hiệu khả quan: tổng vốn FDI đăng ký đạt gần 24,1 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,3%; kim ngạch xuất khẩu đạt 262,44 tỷ USD, tăng 14,8% so với năm trước.
Cùng thời gian này, hơn 174.000 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, với vốn bổ sung hơn 3,3 triệu tỷ đồng, tăng 93,7%. Số hộ kinh doanh thành lập mới cũng lên tới gần 536,2 nghìn hộ, tăng 165%. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), để đạt mục tiêu tăng trưởng 8,3% – 8,5% cả năm, các tháng cuối năm sẽ không hề dễ dàng. Tình hình địa chính trị thế giới biến động đã tái định hình chuỗi giá trị, thúc đẩy dịch chuyển chuỗi cung ứng và làm gia tăng tính bất định của thương mại toàn cầu.
Ngay trong tuần đầu tháng 8/2025, Mỹ áp mức thuế đối ứng mới 20% với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường lớn này mà còn tạo sức ép lan rộng ra toàn bộ chuỗi cung ứng. Bên cạnh thuế, nhiều thị trường áp dụng hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt, yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững. Các doanh nghiệp Việt, vốn có độ mở thương mại cao, phải nhanh chóng đầu tư cho chuyển đổi xanh, nâng tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, đáp ứng quy tắc xuất xứ và minh bạch nguồn gốc. Đây là thách thức lớn với cả doanh nghiệp lớn lẫn hộ sản xuất nhỏ, đặc biệt khi chi phí sản xuất gia tăng.
Từ góc nhìn ngành dệt may, ông Phí Ngọc Trịnh – Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm – cho biết nửa đầu năm 2025 đạt hơn 22 tỷ USD xuất khẩu, nhưng từ quý III số đơn hàng giảm mạnh, nhất là đơn hàng quý IV rất khan hiếm. Nguyên nhân không chỉ do thuế quan Mỹ mà còn vì cạnh tranh từ các nước có chi phí lao động và nguyên liệu thấp hơn như Bangladesh, Campuchia, Myanmar. Giá nguyên liệu như vải, sợi, phụ liệu tăng cao khiến giá thành sản phẩm tăng, trong khi ngành công nghiệp phụ trợ trong nước phát triển chậm khiến dệt may phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu.
Trong khi đó, lĩnh vực nông sản cũng không ít khó khăn. Bà Nguyễn Thị Huyền – Giám đốc Công ty cổ phần Sản xuất và Xuất khẩu Quế hồi Việt Nam – cho biết, tiêu chuẩn chất lượng và bền vững của thị trường nhập khẩu ngày càng khắt khe. Khách hàng không chỉ mua sản phẩm mà còn quan tâm đến trách nhiệm xã hội và môi trường của doanh nghiệp. Ngoài ra, rào cản kỹ thuật như kiểm dịch, ghi nhãn, truy xuất nguồn gốc khác nhau ở từng thị trường khiến việc xuất khẩu phức tạp hơn. Cạnh tranh giá với các quốc gia có chi phí sản xuất thấp càng khiến nông sản Việt chịu áp lực.
Liên kết và tận dụng hiệu quả các hiệp định
![]() |
Doanh nghiệp Việt đầu tư công nghệ và nâng chuẩn sản xuất nhằm đáp ứng tiêu chí khắt khe của các thị trường xuất khẩu. |
Trước thực trạng đó, nhiều chuyên gia tại diễn đàn cho rằng mở rộng thị trường là bài toán sống còn. Việt Nam hiện đã tham gia 17 FTA với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng khoảng 70 cơ chế hợp tác song phương. Khai thác triệt để các FTA này giúp doanh nghiệp giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống và thâm nhập thị trường mới.
Ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh, tiếp cận thị trường mới cần gắn liền với tái cơ cấu ngành hàng xuất khẩu và tái cấu trúc sản xuất kinh doanh. Quá trình này đòi hỏi chuyển đổi tư duy, đầu tư bài bản vào công nghệ và quản trị để nâng năng suất, chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng.
GS,TS. Hoàng Văn Cường – Ủy viên Ủy ban Kinh tế – Tài chính của Quốc hội – cho rằng doanh nghiệp Việt cần “bắt tay nhau”, hình thành liên kết chuỗi cung ứng và tìm ra những doanh nghiệp “đầu đàn” dẫn dắt. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp đầu đàn này, đồng thời tăng các chương trình xúc tiến thương mại và thông tin thị trường chuyên ngành.
TS. Nguyễn Văn Hội – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách công thương – khuyến nghị doanh nghiệp phân loại thị trường để có chiến lược phù hợp. Với thị trường bảo hộ cao như Mỹ, EU, cần đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Trong khi đó, các thị trường tiềm năng như Ấn Độ, Trung Đông, châu Phi cần được đẩy mạnh xúc tiến thương mại và tận dụng ưu đãi từ các FTA như CPTPP, EVFTA, RCEP.
Bà Trần Thị Thu Trang – Chủ tịch Hanel PT NextTech., JSC – đề xuất Chính phủ mở rộng đàm phán FTA thế hệ mới với các khối tiềm năng như MERCOSUR (Nam Mỹ) và GCC (Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh) để giảm thuế quan và mở rộng cửa vào thị trường có sức mua lớn. Đồng thời, bà nhấn mạnh việc thành lập Quỹ bảo hiểm rủi ro thương mại quốc tế theo mô hình công – tư, lấy kinh nghiệm từ Nhật Bản (NEXI) và EU (Euler Hermes/Allianz Trade), giúp doanh nghiệp yên tâm khai phá thị trường rủi ro cao.
Theo mô hình này, doanh nghiệp đóng phí bảo hiểm 0,5 – 1% giá trị hợp đồng, khi rủi ro xảy ra sẽ được bồi thường phần lớn thiệt hại; Nhà nước hỗ trợ một phần phí cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khi thâm nhập thị trường mới. Đây là giải pháp để doanh nghiệp nông sản, dệt may hay các ngành khác có thể mạnh dạn tiến vào các thị trường chưa khai phá.
Với nền tảng từ các FTA, cơ chế hỗ trợ từ Nhà nước và tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp, cơ hội mở rộng thị trường vẫn rộng mở. Vấn đề là phải có chiến lược dài hạn, sự kiên trì và chủ động từ chính doanh nghiệp để biến tiềm năng thành kim ngạch xuất khẩu thực tế, góp phần giữ vững đà tăng trưởng kinh tế cả nước.