Chiến lược giảm phát thải: Chìa khóa nâng tầm nông sản Việt Nông nghiệp thời công nghệ số: xây dựng thương hiệu sản phẩm thanh hóa trên nền tảng số |
![]() |
Ngành dứa Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành mặt hàng nông sản chủ lực, mang lại giá trị kinh tế cao. Ảnh Đình Minh |
Liên kết 4 nhà: Từ tư duy sản xuất đến chuỗi giá trị thị trường
Nền tảng của cuộc cách mạng này nằm ở việc thay đổi câu hỏi cốt lõi. Thay vì "đất này trồng được cây gì?", câu hỏi giờ đây là "thị trường cần gì và làm thế nào để đáp ứng một cách hiệu quả nhất?". Tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung bộ”, ông Nguyễn Ngọc Thạch, Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, đã đến lúc phải thay đổi mạnh mẽ, coi nông sản là sản phẩm hàng hóa cần được "định danh, định chuẩn và định hướng thị trường rõ ràng". Trục xương sống để hiện thực hóa tư duy này chính là mô hình liên kết 4 nhà (Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông) đang được định hình ngày một rõ nét.
Trong đó, nhà doanh nghiệp nổi lên với vai trò dẫn dắt, tạo ra luật chơi mới. Sự có mặt của các doanh nghiệp đầu tàu như Công ty Cổ phần Thực phẩm Xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO) là minh chứng sống động. Họ không chỉ mang đến một cam kết bao tiêu sản phẩm, mà còn định hướng vùng trồng và đầu tư vào hệ thống chế biến sâu. Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch DOVECO, khẳng định dứa là cây có thể trồng quanh năm, không phụ thuộc thời vụ, là lợi thế cực lớn trong sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn đề nghị chính quyền địa phương cần có chính sách hỗ trợ nông dân trong giai đoạn đầu chuyển đổi. Về phía mình, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Nguyễn Thế Trung cũng chia sẻ một góc nhìn chiến lược, rằng đầu tư vào chế biến nông sản đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, thường mất 6-7 năm mới thấy hiệu quả, và sẽ rất rủi ro nếu xây dựng nhà máy mà không đảm bảo được nguồn nguyên liệu ổn định.
Vai trò của Nhà nước là "trải thảm đỏ", kiến tạo môi trường thuận lợi. Tại Nghệ An, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Đệ cho biết tỉnh đã xây dựng 4 cơ chế quan trọng, từ quy hoạch đất đai, chính sách khuyến khích đến ưu đãi cho nhà đầu tư và thúc đẩy chuyển đổi số. Tại Thanh Hóa, Phó Giám đốc Sở NN-MT Nguyễn Đức Cường chia sẻ tỉnh đang triển khai lập bản đồ thổ nhưỡng chi tiết tới từng xã để xác định cây trồng phù hợp, một bước đi khoa học và bài bản.
Song hành cùng đó, nhà khoa học cung cấp "vũ khí" tri thức và công nghệ. Với ngành chè, TS. Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện KHKT Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, đề xuất cơ cấu giống cụ thể cho từng mục tiêu, như giống Hương Bắc Sơn, Kim Tuyên cho chè xanh cao cấp, đồng thời nhấn mạnh các kỹ thuật đặc thù như trồng cây che bóng 3 tầng và bắt buộc phải có hệ thống tưới. Với cây có múi, TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc từ Viện Bảo vệ thực vật nhấn mạnh tầm quan trọng của giống sạch bệnh bằng câu nói đầy sức nặng: "Một đời người chỉ 2-3 lần trồng lại cây có múi", cho thấy việc lựa chọn đúng ngay từ đầu có ý nghĩa quyết định.
Cuối cùng, nhà nông, từ vị thế người sản xuất thụ động, đã trở thành đối tác chủ động trong chuỗi giá trị. Câu chuyện của bà Nguyễn Thị Việt Hà ở huyện miền núi Vũ Quang (Hà Tĩnh) là một ví dụ điển hình. Từ việc quan sát những bụi dứa mọc tự nhiên ven rào vẫn cho quả ngọt, bà đã trăn trở và quyết liệt kết nối với doanh nghiệp, tiên phong đưa cây dứa về mảnh đất khó, tạo ra một mô hình kinh tế với lợi nhuận 200 triệu đồng/ha, cao gấp ba lần cây keo truyền thống.
Ba ngành hàng, ba câu chuyện: Bài học từ dứa, chè và cây có múi
![]() |
PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam. Ảnh Nongnghiepmoitruong.vn |
Tư duy kinh tế nông nghiệp không phải là lý thuyết suông, mà được thể hiện rõ nét qua thực trạng và định hướng phát triển của ba ngành hàng chủ lực tại Bắc Trung bộ. Nếu cây dứa là minh chứng cho một tương lai xán lạn khi được đi đúng hướng, thì cây có múi và cây chè lại là những bài học sâu sắc về cơ hội bị bỏ lỡ và con đường cần đi để tìm lại vị thế.
Cây dứa đang nổi lên như một "ngôi sao" sáng giá, một ứng cử viên tiềm năng cho danh hiệu "cây tỷ đô" của vùng. Câu chuyện bắt đầu từ trăn trở của ông Phạm Duy Thái, Chủ tịch HĐQT GLFOODS, khi giống dứa MD2 chiếm hơn 50% diện tích toàn cầu nhưng chưa tới 5% ở Việt Nam. Lý giải điều này, ông Đinh Cao Khuê cho biết điểm nghẽn nằm ở khâu nhân giống còn chậm và chi phí nhập khẩu cao, ví dụ một chồi giống từ Costa Rica có giá tới 11.000 đồng. Về phía người nông dân, bà Bùi Thị Hồng Hà từ Trung tâm Nông nghiệp Hữu cơ cũng lo ngại nếu không có liên kết bền vững, việc mở rộng tự phát sẽ dẫn đến cảnh "được mùa mất giá". Để giải quyết tổng thể, ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết Bộ NN-MT sẽ có định hướng bài bản để đưa dứa thành nông sản chủ lực, điều chỉnh quy hoạch 60.000 ha đến năm 2030 và đặc biệt chú trọng thị trường Trung Quốc.
Trái ngược với đà đi lên của cây dứa, ngành hàng cây có múi, vốn là niềm tự hào của vùng với những thương hiệu như Cam Vinh, Bưởi Phúc Trạch, lại đang trải qua một giai đoạn suy thoái nghiêm trọng. Diện tích trồng cam tại Nghệ An giảm hơn một nửa từ 5.400 ha xuống còn 2.500 ha. Nguyên nhân sâu xa đến từ việc chạy theo sản lượng mà xem nhẹ nền tảng: giống cây kém chất lượng, đất đai thoái hóa và dịch bệnh Greening hoành hành. Hướng đi mới theo tư duy kinh tế là một cuộc "đại phẫu" bài bản, như Viện Bảo vệ thực vật đề xuất: xây dựng hệ thống nhân giống sạch bệnh bằng kỹ thuật vi ghép, áp dụng canh tác hữu cơ và quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Đây không chỉ là việc cứu một loại cây trồng, mà là nỗ lực phục hồi giá trị và uy tín cho cả một thương hiệu đặc sản.
Cuối cùng, cây chè là một ví dụ kinh điển về "mỏ vàng" chưa được khai thác đúng cách. Với tiềm năng có thể đạt doanh thu 400 triệu đồng/ha từ búp tươi và gấp đôi nếu chế biến, thực tế thu nhập của người trồng chè Bắc Trung bộ chỉ dừng ở mức 50-60 triệu đồng/ha. Sự chênh lệch khổng lồ này chính là cái giá phải trả cho tư duy sản xuất cũ kỹ. Lời giải cho ngành chè, theo các chuyên gia, nằm ở việc tái cơ cấu lại giống, học hỏi các mô hình thành công như Thái Nguyên, và quan trọng nhất là phải đầu tư mạnh mẽ vào khâu chế biến sâu để biến "vàng xanh" từ dạng thô thành các sản phẩm tinh chế có giá trị gia tăng cao.
Hành trình chuyển đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp tại Bắc Trung bộ chỉ mới bắt đầu, với vô vàn thách thức phía trước. Nhưng những tín hiệu tích cực từ sự vào cuộc đồng bộ của bốn nhà, cùng những câu chuyện thành công bước đầu, đang thắp lên một niềm tin vững chắc. Như lời của PGS.TS Lê Quốc Doanh, "càng khó càng phải nghĩ cách làm cho khác. Đó là cơ hội để vươn lên bằng chính sự khác biệt". Bắc Trung bộ đang nắm lấy cơ hội đó, để biến những sản vật của mình không chỉ là niềm tự hào của địa phương, mà còn là những thương hiệu mạnh, có chỗ đứng xứng đáng trên bản đồ nông sản toàn cầu.
![]() |
![]() |