Cách nào để chè Việt mở rộng miếng bánh thị phần? Ngành chè Việt Nam đứng trước cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu Cần làm gì để ngành chè Việt Nam vươn xa, nâng cao giá trị |
![]() |
Sản phẩm chè xanh chất lượng cao cần vùng nguyên liệu chuẩn hóa và đầu tư công nghệ chế biến hiện đại. |
Giá nội địa vượt xuất khẩu tạo xu hướng mới
“Trước đây, chè đen từng chiếm tới 60-70% sản lượng xuất khẩu, nhưng hiện đã nhường chỗ cho sự tăng trưởng của chè xanh” – PGS.TS Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc chia sẻ tại Diễn đàn kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản vùng Bắc Trung Bộ. Cơ cấu thị trường chè đang thay đổi mạnh mẽ: chè xanh (bao gồm chè ướp hương, chè nhài, chè Ô long) hiện chiếm gần 60% sản lượng và tới 70% giá trị xuất khẩu của ngành chè Việt.
Tuy vậy, thị trường nội địa mới là nơi đang mang lại giá trị vượt trội. Dẫn số liệu từ Hiệp hội Chè Việt Nam, ông Toàn cho biết: năm 2024, lượng chè xuất khẩu gần 150.000 tấn với giá bình quân 1,75 USD/kg, đạt hơn 250 triệu USD. Trong khi đó, sản lượng tiêu thụ trong nước chỉ khoảng 55.000 tấn nhưng đạt giá trung bình tới 7,5 USD/kg, tương đương 410 triệu USD – cao hơn 1,64 lần về giá trị dù thấp hơn nhiều về sản lượng.
Không khó hiểu khi ngày càng nhiều vùng chè lớn như Thái Nguyên đã chủ động “quay lưng” với xuất khẩu. Giá chè nội địa hiện đạt tới 7–8 USD/kg, cao hơn so với thị trường cao cấp như London (chỉ khoảng 6–7 USD/kg). Bài toán kinh tế đang làm thay đổi tư duy sản xuất, khi người trồng chè không còn xem thị trường quốc tế là ưu tiên hàng đầu. Điều này càng trở nên rõ ràng hơn khi giá chè xanh xuất khẩu trung bình cao hơn chè đen tới 1,53 lần.
Tuy nhiên, xuất khẩu chè cũng đang chững lại. Báo cáo 7 tháng đầu năm 2025 từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy sản lượng xuất khẩu đạt 69.900 tấn, tương đương 117 triệu USD, giảm 10,9% về sản lượng và 12,2% về giá trị so với cùng kỳ 2024. Mức giá trung bình chỉ còn 1.674 USD/tấn, giảm 1,4%.
Hiện ba thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam là Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc, chiếm lần lượt 35,7%, 11,4% và 9,7% tổng thị phần. Tuy có thị trường tăng mạnh như Iraq (tăng 92,9%), nhưng cũng có nơi giảm sâu như Tiểu vương quốc Ả rập Thống Nhất (giảm 56,3%), phản ánh rủi ro và tính bất ổn của xuất khẩu nông sản thô.
Trong bối cảnh đó, xu hướng chuyển sang chè chất lượng cao cho thị trường trong nước và phân khúc cao cấp quốc tế là lựa chọn thực tiễn. Đặc biệt, sản phẩm chè xanh ướp hương – nhất là chè nhài – đang được cả người tiêu dùng trong nước và quốc tế ưa chuộng. Đây là cơ hội để người trồng chè xây dựng chuỗi giá trị khác biệt, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước giảm lệ thuộc vào xuất khẩu thô.
Phát triển chè xanh cần đầu tư bài bản
![]() |
Người trồng chè chuyển hướng phục vụ thị trường nội địa nhằm ổn định đầu ra và nâng cao giá trị sản phẩm. |
Tại Diễn đàn ngày 6/8, nhiều chuyên gia và nhà quản lý đã nhấn mạnh tới yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển ngành chè. Theo ông Nguyễn Quý Dương – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), năm 2024, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 431/QĐ-BNN-TT phê duyệt Đề án Phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030, trong đó ngành chè giữ vai trò quan trọng.
Mục tiêu cụ thể được đề ra gồm: nâng diện tích trồng chè cả nước lên 130–135 nghìn ha; sản lượng đạt 1,4–1,5 triệu tấn chè búp tươi; giá trị xuất khẩu đạt 280–300 triệu USD. Tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu dùng trong thực phẩm, mỹ phẩm, y tế đạt 20–25%; các sản phẩm chế biến hiện đại như chè túi lọc, chè Matcha, Sencha chiếm trên 40%; tỷ lệ diện tích được cấp mã số vùng trồng đạt 30–40%.
Để đạt các mục tiêu này, ngành chè cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống theo hướng trồng mới, thay thế nương chè trung du già cỗi bằng giống chè xanh chất lượng cao. Việc xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, áp dụng quy trình kỹ thuật hiện đại gắn với chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm được xem là giải pháp trọng tâm giúp gia tăng giá trị bền vững.
Từ góc độ địa phương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An – ông Nguyễn Văn Đệ – cho biết tỉnh đã có kế hoạch quy hoạch vùng chè, tích tụ đất đai, thu hút đầu tư vào chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm chè. Tư duy phát triển nông nghiệp không dừng ở khâu sản xuất, mà phải định danh – định chuẩn – định hướng rõ ràng cho từng dòng sản phẩm để khai thác tối đa lợi thế vùng và nâng tầm giá trị nông sản.
PGS.TS Nguyễn Văn Toàn cũng nhấn mạnh rằng các địa phương nên tập trung phát triển sản phẩm chè xanh cao cấp phục vụ nhu cầu nội địa, đồng thời nâng cấp sản phẩm xuất khẩu từ chè đen sang chè ướp hương, chè Ô long hay các loại chè có giá trị tăng cao khác. Cần tạo ra những vùng nguyên liệu ổn định, có thể truy xuất nguồn gốc và được cấp mã số vùng trồng – đây là cơ sở để tiếp cận thị trường cao cấp và khẳng định thương hiệu chè Việt.
Đặc biệt, ngành chè nên xác định rõ: nông sản hôm nay không chỉ là sản phẩm tiêu dùng mà còn là tài sản văn hóa, mang bản sắc vùng miền. Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao cho sự khác biệt, thì chính tư duy “sản phẩm hàng hóa đặc trưng” sẽ là chìa khóa để chè Việt Nam vươn tầm giá trị, phát triển bền vững, và mang lại sinh kế ổn định cho người trồng chè khắp cả nước.