| Từ FTA đến thương hiệu xanh: Nông sản Việt khẳng định vị thế mới |
![]() |
| Trong tuần cuối tháng 10 và những ngày đầu tháng 11, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm nhẹ từ 1 – 5 USD/tấn tùy loại. |
Giá gạo hạ nhiệt, thị trường xuất khẩu chững nhịp
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong tuần cuối tháng 10 và những ngày đầu tháng 11, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm nhẹ từ 1 – 5 USD/tấn tùy loại. Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu từ các thị trường nhập khẩu chững lại trong khi nguồn cung trong nước tăng. Cụ thể, gạo tiêu chuẩn 5% tấm đạt 373 USD/tấn – mức cao nhất thế giới, cao hơn Thái Lan và Ấn Độ khoảng 15 – 16 USD/tấn. Gạo thơm 5% tấm dao động 415 – 430 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước; gạo Jasmine đạt 482 USD/tấn.
Một thương nhân tại An Giang cho biết, lượng đơn hàng mới từ các thị trường châu Á và châu Phi đang chậm lại, trong khi vụ Thu Đông bước vào giai đoạn thu hoạch khiến giá có xu hướng giảm nhẹ. Ở thị trường nội địa, giá lúa gạo nhìn chung ổn định. Tại Cần Thơ, lúa Jasmine được thu mua 8.400 đồng/kg, IR5451 đạt 6.200 đồng/kg, ST25 ở mức 9.400 đồng/kg, OM18 đạt 6.800 đồng/kg. Tại Đồng Tháp, Vĩnh Long và An Giang, giá lúa tươi phổ biến từ 4.800 – 5.900 đồng/kg, gần như đi ngang so với tuần trước.
Trên thị trường bán lẻ, giá gạo thường dao động 12.000 – 14.000 đồng/kg, Jasmine ở mức 16.000 – 18.000 đồng/kg, còn gạo thơm Thái, Hương Lài và Nàng Hoa khoảng 20.000 – 22.000 đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu IR50404 giữ mức 8.100 – 8.250 đồng/kg, gạo thành phẩm IR504 ở 9.500 – 9.700 đồng/kg; các loại OM380, OM18 duy trì 7.800 – 9.000 đồng/kg; phụ phẩm như cám khô, tấm khoảng 7.400 – 10.000 đồng/kg.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến cuối tháng 10, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã hoàn thành kế hoạch gieo trồng vụ Thu Đông với hơn 763.000 ha, đạt 102,8% kế hoạch. Năng suất bình quân gần 5,7 tấn/ha, cho sản lượng ước đạt 1,85 triệu tấn lúa. Các địa phương hiện đang xuống giống vụ Đông Xuân 2025 – 2026 với hơn 108.000 ha, hướng tới tổng kế hoạch 1,26 triệu ha. Tuy nhiên, những đợt mưa lớn kéo dài cùng lũ thượng nguồn sông Cửu Long dâng cao đã khiến một số diện tích bị ảnh hưởng, có thể làm giảm sản lượng vụ Thu Đông và khiến nguồn cung cuối năm thấp hơn cùng kỳ.
Trong khi đó, thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam – Philippines – vẫn “án binh bất động”. Sau khi lệnh ngừng nhập khẩu 60 ngày kết thúc vào 31/10, Chính phủ nước này vẫn chưa đưa ra chính sách mới vì đang rà soát số liệu sản lượng, tồn kho và dự báo thời tiết. Một số nguồn tin cho biết, Philippines có thể kéo dài lệnh ngừng nhập thêm 15 – 30 ngày và tăng thuế nhập khẩu gạo từ 15% lên 35%. Có dự báo thậm chí cho rằng nước này sẽ tạm dừng nhập khẩu đến cuối năm 2025, chỉ mở lại ngắn hạn vào đầu năm 2026.
Dù vậy, số liệu mới nhất cho thấy lượng gạo tồn kho của Philippines chỉ đủ dùng trong 30 ngày, nguy cơ thiếu hụt từ tháng 12/2025 là rất cao. Ông Nguyễn Vĩnh Trọng – Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng (Đồng Tháp) – nhận định: “Thị trường Philippines tạm chững chưa đáng lo. Các nước châu Phi, đặc biệt là Ghana và Bờ Biển Ngà, đang tăng mua để phục vụ nhu cầu cuối năm, cùng với đó là Malaysia và Trung Quốc. Khi Philippines mở lại nhập khẩu, giá gạo chắc chắn sẽ tăng trở lại.”
Mở hướng đi xanh cho thương hiệu gạo Việt
![]() |
| Xuất khẩu gạo Việt Nam dự báo sẽ đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Ấn Độ. |
Theo ông Đỗ Hà Nam – Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam – tính đến giữa tháng 10, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo và dự kiến cả năm đạt 8 triệu tấn, vượt Thái Lan để trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ấn Độ. “Trong hai tháng qua, dù Philippines ngừng nhập khẩu, Việt Nam vẫn duy trì xuất khoảng 500.000 tấn/tháng nhờ doanh nghiệp chủ động mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu sang châu Phi,” ông Nam chia sẻ.
Đánh giá này có cơ sở khi tính đến tháng 9/2025, Thái Lan mới xuất khoảng 6 triệu tấn – thấp hơn Việt Nam 1 triệu tấn – và dự báo cả năm chỉ đạt khoảng 7,5 triệu tấn. Chính phủ Thái Lan hiện đang xúc tiến các hợp đồng thương mại gạo cấp Chính phủ (G2G) với Singapore và Trung Quốc, đồng thời triển khai chương trình hỗ trợ giá lúa gạo cho nông dân với mức tăng 3 – 5%, tổng sản lượng 14 triệu tấn, nhằm ổn định thị trường và bảo đảm thu nhập cho người trồng lúa.
Trong khi đó, Ấn Độ vẫn giữ vững vị trí dẫn đầu với sản lượng xuất khẩu dự kiến khoảng 24 triệu tấn. Nguồn cung dồi dào, giá rẻ từ Ấn Độ được xem là yếu tố chính khiến giá gạo thế giới giảm trong năm 2025. Indonesia – từng là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới năm 2024 – hiện đã tự chủ được nguồn cung và đang hướng đến mục tiêu xuất khẩu trong tương lai gần.
Trên thị trường quốc tế, giá gạo Ấn Độ duy trì ở mức 344 – 360 USD/tấn, trong khi Thái Lan tăng nhẹ lên 340 USD/tấn sau sáu tuần giảm liên tiếp. Giới thương nhân cho rằng, xu hướng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới sẽ phụ thuộc vào tiến độ thu hoạch, nhu cầu từ các thị trường lớn và diễn biến thời tiết khu vực châu Á. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cũng đồng tình rằng năm 2025, Việt Nam không chịu nhiều áp lực tiêu thụ, song vẫn có thể xuất hiện lượng tồn kho nhỏ chuyển sang năm 2026.
Dự kiến cuối quý I/2026, khi bước vào vụ thu hoạch Đông Xuân – vụ lớn nhất trong năm – áp lực tiêu thụ sẽ tăng, ảnh hưởng nhất định đến giá bán. Ông Đỗ Hà Nam kiến nghị Chính phủ sớm tháo gỡ vướng mắc về thuế giá trị gia tăng (VAT) bằng cách quay lại chính sách không kê khai, không tính thuế với sản phẩm nông nghiệp sơ chế như trước, đồng thời tăng cường các hợp đồng cấp Chính phủ và hỗ trợ vốn để doanh nghiệp thu mua lúa cho nông dân.
Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh Nhật Bản và nhiều thị trường cao cấp khác đang khan hiếm nguồn cung, Việt Nam cần đẩy mạnh triển khai chương trình 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, gắn với chiến lược xây dựng thương hiệu gạo xanh. Đây không chỉ là hướng đi chiến lược mà còn là bước chuyển tất yếu giúp gạo Việt khẳng định vị thế, gia tăng giá trị và hình thành phân khúc riêng trên bản đồ nông nghiệp thế giới.




