| Chỉ số CPI giảm, lạm phát quý I/2025 tăng 3,01% CPI 7 tháng tăng 3,3%, Bộ Tài chính cập nhật kịch bản điều hành giá 5 tháng cuối năm Giá điện, thuê nhà đẩy CPI tháng 8 tăng 0,05% |
![]() |
| Rau bị hư hại, ngập úng trên diện rộng sau bão lũ, khiến giá rau xanh tăng cao. Ảnh Kim Tuyến |
Báo cáo được công bố ngày 6/11 cũng chỉ rõ, so với tháng 12/2024, CPI tháng 10 đã tăng 2,82% và tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng đầu năm 2025, CPI bình quân tăng 3,27% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong mức tăng 0,20% của CPI tháng 10 so với tháng 9, dữ liệu thống kê ghi nhận có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng. Nhóm duy nhất ghi nhận giảm là nhóm giao thông. Diễn biến này cho thấy áp lực lạm phát đang hiện diện ở hầu hết các nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu, tạo ra thách thức trong việc ổn định mặt bằng giá những tháng cuối năm.
Hàng ăn, giáo dục và may mặc đồng loạt "đẩy" giá tiêu dùng
Phân tích sâu hơn vào các nhóm hàng tác động chính, Cục Thống kê chỉ rõ, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống là động lực tăng giá mạnh nhất trong tháng, với mức tăng chung 0,59%. Chỉ riêng nhóm này đã đóng góp tới 0,20 điểm phần trăm vào mức tăng CPI chung của toàn nền kinh tế.
Nguyên nhân của sự gia tăng này đến từ hai yếu tố cấu thành chính. Thứ nhất, chỉ số giá thực phẩm tăng 0,69%, tác động làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm. Yếu tố này mang nặng tính mùa vụ, khi giá thực phẩm, đặc biệt là rau củ và thịt cá, tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mưa lũ sau bão, gây gián đoạn nguồn cung cục bộ và tăng chi phí vận chuyển, bảo quản.
Thứ hai, chỉ số giá ăn uống ngoài gia đình tăng 0,57%. Đây là hệ quả trực tiếp của việc chi phí nguyên liệu đầu vào (thực phẩm) tăng, buộc các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống phải điều chỉnh giá bán để bù đắp chi phí. Trong khi đó, nhóm lương thực chỉ ghi nhận mức tăng nhẹ 0,02%, không tác động đáng kể đến rổ hàng hóa chung.
Nhóm thứ hai có tác động lớn là giáo dục, với mức tăng 0,51%. Đáng chú ý, chỉ số giá dịch vụ giáo dục tăng 0,56%. Mức tăng này chủ yếu đến từ khối ngoài công lập, khi một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trường dạy nghề, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương điều chỉnh tăng học phí theo lộ trình của năm học 2025-2026.
Việc tăng giá của khối tư thục diễn ra trong bối cảnh các trường công lập trên cả nước đang thực hiện miễn, giảm và hỗ trợ học phí theo tinh thần của Nghị định số 238/2025/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 03/9/2025, nhằm chia sẻ khó khăn với người dân. Bên cạnh học phí, các mặt hàng phục vụ học tập khác cũng tăng giá như: sản phẩm từ giấy tăng 0,29%; bút viết các loại tăng 0,24%; văn phòng phẩm và đồ dùng học tập khác tăng 0,10%.
Ngoài hai nhóm chính trên, nhiều nhóm hàng khác cũng ghi nhận mức tăng, góp phần vào đà tăng chung của CPI. Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,18% do nhu cầu mua sắm của người dân tăng lên khi thời tiết bắt đầu chuyển lạnh ở các tỉnh phía Bắc.
Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,20%, phản ánh sự gia tăng của chi phí sản xuất và chi phí nhân công. Cụ thể, giá các mặt hàng như trang thiết bị nhà bếp tăng 0,7%; ấm, phích nước điện tăng 0,59%; máy giặt tăng 0,54%. Đồng thời, chi phí cho dịch vụ trong gia đình (như sửa chữa, giúp việc) cũng tăng 0,43%. Các nhóm còn lại như đồ uống và thuốc lá tăng 0,12% (do nhu cầu tiêu dùng và chi phí sản xuất), hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,43%...
Lạm phát cơ bản ổn định, giá vàng "nóng" kỷ lục
Bên cạnh chỉ số giá tiêu dùng, báo cáo của Cục Thống kê cũng cung cấp cái nhìn về lạm phát cơ bản và biến động của các tài sản quan trọng như vàng và đô la Mỹ.
Về lạm phát, lạm phát cơ bản (Core Inflation) tháng 10/2025 tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 3,30% so với cùng kỳ năm trước. Tính bình quân 10 tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,20% so với cùng kỳ năm 2024. Con số này thấp hơn mức tăng 3,27% của CPI bình quân chung.
Sở dĩ có sự chênh lệch này là do CPI chịu tác động mạnh từ các yếu tố mang tính thời vụ và quản lý của nhà nước như giá lương thực, thực phẩm tươi sống, giá điện sinh hoạt, dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục. Đây là những yếu EtoS vốn được loại trừ khỏi danh mục tính lạm phát cơ bản. Việc lạm phát cơ bản duy trì ở mức thấp hơn CPI cho thấy chính sách tiền tệ vẫn đang phát huy hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát từ gốc.
Trái ngược với sự ổn định tương đối của lạm phát, giá vàng trong nước biến động cùng chiều và chịu ảnh hưởng mạnh từ giá vàng thế giới. Tính đến ngày 31/10/2025, giá vàng thế giới bình quân ở mức 4.030,66 USD/ounce, tăng tới 9,28% so với tháng trước. Đây được xem là mức tăng mạnh nhất trong nhiều năm gần đây.
Nguyên nhân đợt tăng giá "sốc" này được lý giải do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định cắt giảm lãi suất điều hành. Động thái này ngay lập tức khiến đồng USD suy yếu, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ giảm sâu, làm cho vàng (tài sản không mang lãi suất) trở nên hấp dẫn hơn đáng kể với giới đầu tư. Hơn nữa, các yếu tố như rủi ro địa chính trị gia tăng, bất ổn kinh tế toàn cầu, việc các ngân hàng trung ương tiếp tục mua ròng vàng để đa dạng hóa dự trữ và hoạt động đầu cơ tăng mạnh đã cùng nhau thúc đẩy giá vàng lên cao.
Tại thị trường trong nước, chỉ số giá vàng tháng 10 tăng vọt 12,53% so với tháng trước. Nếu so với tháng 12/2024, giá vàng đã tăng 63,64% và tăng 65,03% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân 10 tháng qua, chỉ số giá vàng đã tăng 44,02%.
Đối với đô la Mỹ, thị trường trong nước ghi nhận diễn biến ngược chiều với thế giới. Trên thị trường quốc tế, chỉ số giá đô la Mỹ (đo lường sức mạnh USD với 6 đồng tiền chủ chốt) tính đến ngày 31/10/2025 đạt mức 98,46 điểm, tăng 1,02% so với tháng trước. Nguyên nhân là thị trường kỳ vọng FED sẽ duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, đồng thời nhu cầu nắm giữ USD tăng lên trong bối cảnh bất ổn địa chính trị và triển vọng kinh tế toàn cầu suy yếu.
Tuy nhiên, trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10 lại giảm 0,34% so với tháng trước, cho thấy sự ổn định của tỷ giá trong nước. Dù vậy, so với cùng kỳ năm trước, chỉ số này vẫn tăng 5,54%; tăng 3,62% so với tháng 12/2024. Bình quân 10 tháng năm 2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,98% so với cùng kỳ.



