Xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam vào Trung Quốc đạt gần 2 tỉ USD Xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam có xu hướng tăng trở lại Xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ đạt mức cao nhất trong 1 năm qua |
Lý do khiến xuất khẩu viên nén gỗ sụt giảm
Năm 2023, xuất khẩu viên nén gỗ dự kiến sụt giảm 17% so với năm ngoái. |
Theo số liệu của Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST), năm 2022, Việt Nam xuất khẩu viên nén gỗ đạt trên 787 triệu USD, tăng hơn 90% so với năm 2021. Tuy nhiên, năm 2023, với những yếu tố tác động từ thị trường nhập khẩu, dự báo, xuất khẩu viên nén gỗ của Việt Nam sẽ sụt giảm khoảng 15 - 17% so với năm 2022.
Là doanh nghiệp sản xuất viên nén xuất khẩu đi thị trường Nhật Bản, ông Lê Văn Tuyển - Giám đốc Nhà máy viên nén năng lượng Cam Lộ (Quảng Trị) - cho hay, nếu năm ngoái, tình hình thị trường “khá chạy” thì năm nay ngược lại, tình hình bán hàng rất chậm. Mặc dù đơn hàng đã ký, nhưng khách hàng trì hoãn việc lấy hàng.
Nguyên nhân do, năm ngoái, thị trường này nhập hàng nhiều hơn cần thiết, lượng tồn kho còn nhiều, dùng chưa hết. Các kho bên Nhật Bản đã đầy, nhập hàng về họ cũng không biết để đâu. Bên cạnh đó, qua trao đổi với một số khách hàng thì được biết, một số nhà máy chuyển đổi từ các nhà máy nhiệt điện đốt bằng các vật liệu khác như than đá,… sang viên nén. Việc chuyển đổi này vẫn chưa được thông suốt, tình trạng các nhà máy bị gặp trục trặc vẫn xảy ra, do đó, họ phải dừng lại để xử lý sự cố.
“Hiện, giá viên nén đang ở mức 140 - 145 USD/tấn với các hợp đồng mới ký, còn với các hợp đồng đã ký từ trước đó thì mức giá này chỉ khoảng 130 - 140 USD/tấn. Đáng chú ý, có thời điểm giá viên nén gỗ xuất khẩu xuống còn 100 USD/tấn, giảm gần một nửa so với thời điểm cao nhất của năm 2023”, ông Lê Văn Tuyển cho biết.
Tương tự, theo ông Nguyễn Văn Hiển - Giám đốc Công ty Tâm Phúc Gia Lai, trước đây doanh nghiệp cũng xuất khẩu đi Hàn Quốc, nhưng không cạnh tranh được với hàng Nga. Giá viên nén xuất khẩu đi Hàn Quốc đang rất thấp. Hiện giá bán 120 USD, trong khi giá thành 125 - 130 USD, đơn hàng ít, tình hình thị trường vẫn thiếu các yếu tố tích cực.
Theo chia sẻ từ một số doanh nghiệp xuất khẩu, lượng viên nén của Việt Nam xuất sang thị trường Hàn Quốc giảm không phải là giảm cầu tại thị trường này mà do các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu viên nén từ các nguồn cung khác, bao gồm cả nguồn cung từ Nga.
Đa dạng tệp khách hàng, nắm bắt cơ hội thị trường
Việt Nam, quốc gia lớn thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu viên nén, trên 95% viên nén của Việt Nam được xuất vào Nhật và Hàn Quốc. |
Việt Nam, quốc gia lớn thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu viên nén, trên 95% viên nén của Việt Nam được xuất vào Nhật và Hàn Quốc. Theo ước tính, ngành viên nén gỗ hiện có sự tham gia của 400 - 500 doanh nghiệp đang tham gia khâu sản xuất và thương mại xuất khẩu. Trong đó có khoảng trên dưới 100 doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào khâu xuất khẩu. Điều này có nghĩa phần lớn các doanh nghiệp trong ngành đóng vai trò sản xuất, cung sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Các doanh nghiệp xuất khẩu viên nén gỗ nhận định, phải đến quý II/2024 tình hình thị trường xuất khẩu mới có thể được cải thiện. Dự báo là vậy nhưng thực tế không biết ra sao. “Chúng tôi cũng tin tưởng tốc độ tiêu thụ của các nhà máy nhiệt điện Nhật Bản ổn định trở lại thì đến năm 2024 thị trường sẽ khả quan hơn giai đoạn 2023 vừa rồi”, ông Nguyễn Văn Hiển nói.
Thị trường viên gỗ nén toàn cầu được nhận định sẽ đạt khoảng 31 tỷ USD vào năm 2030. Các doanh nghiệp cho rằng, khó khăn về thị trường chỉ mang tính chất ngắn hạn, về dài hạn, tiềm năng vẫn là rất lớn. Do đó, việc đa dạng tệp khách hàng cũng là hướng đi mà các doanh nghiệp tính đến.
“Chúng tôi cũng đã đầu tư 1 nhà máy mới ở Kom Tum công suất 80 nghìn tấn/năm, chạy từ đầu năm đến nay với công suất 30 - 40% để chờ đón cơ hội thị trường”, ông Nguyễn Văn Hiển nói.
Với khách hàng Nhật Bản, ông Lê Văn Tuyển cho hay, hiện doanh nghiệp đang tìm kiếm các đối tác, ký kết các hợp đồng dài hạn 5 - 10 năm. Về giá, doanh nghiệp cũng đang đàm phán theo hướng 1 phần phải thả nổi theo thị trường, thị trường biến động bao nhiêu % thì doanh nghiệp sẽ điều chỉnh giá. Tuy nhiên, việc này chưa tìm được tiếng nói chung với khách hàng Nhật Bản.
Với thị trường EU, theo ông Tuyển, giá xuất khẩu sang thị trường này sẽ tốt hơn sang Hàn Quốc. Tuy nhiên, thị trường EU có các tiêu chuẩn khá khắt khe, doanh nghiệp xuất khẩu gặp rào cản về chứng chỉ, ngoài FSC, họ yêu cầu tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội và nhiều tiêu chuẩn khác. Ngoài ra, viên nén gỗ Việt sẽ chịu sự cạnh tranh rất lớn với viên nén gỗ của Nga về chất lượng và giá bán. Do đó, để có thể thành công tại thị trường EU, các doanh nghiệp cần phải làm theo chuỗi, hoặc thông qua các doanh nghiệp làm thương mại.
Chuyên gia phân tích chính sách Tổ chức Forest Trends nhận định, tính bền vững của ngành viên nén của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cầu của thị trường và tính bền vững của nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào.
Ngành viên nén Việt Nam vẫn có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại Nhật Bản. Theo đánh giá của các doanh nghiệp viên nén, nhu cầu tiêu thụ viên nén gỗ tại Nhật Bản sẽ mở rộng gấp 3 lần so với hiện tại.
Viên nén xuất khẩu vào Nhật Bản đòi hỏi cần có chứng chỉ bền vững. Do nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu cọ (PKS) có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ và do vậy không đáp ứng được yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Nếu điều này xảy ra, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thay thế nguồn cung PKS từ Indonesia.
Tại thị trường Hàn Quốc, dư địa phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai không nhiều. Quy mô của thị trường này không có nhiều thay đổi. Đây là thị trường tương đối dễ tính, chấp nhận các nguồn cung với chất lượng và tiêu chuẩn không cao.
Theo một số doanh nghiệp Việt Nam hiện đang xuất khẩu viên nén vào Hàn Quốc, một số nhà mua lớn của thị trường này đang bắt đầu đòi hỏi các bằng chứng về truy xuất nguồn gốc. Nên trong 4 - 5 năm tới, yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm có thể sẽ là bắt buộc khi xuất khẩu vào Hàn Quốc.
Xuất khẩu viên nén gỗ khó đạt mục tiêu 1 tỷ USD
Mục tiêu xuất khẩu viên nén đạt kim ngạch 1 tỷ USD trong năm 2023 mà VIFOREST đề ra từ đầu năm khó có thể trở thành hiện thực. |
Nếu như năm 2022 xuất khẩu viên nén có nhiều đột phá khi kim ngạch xuất khẩu đạt 790 triệu USD với số lượng 4,9 triệu tấn, bước sang năm 2023 xuất khẩu viên nén giảm sút cả về số lượng cũng như giá trị xuất khẩu.
Theo VIFOREST, giá trị xuất khẩu viên nén tháng 11/2023 chỉ đạt 58 triệu USD, lũy kế 11 tháng đạt 597 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến, cả năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu viên nén chỉ đạt 660-665 triệu USD, giảm 16% so với năm 2022.
Như vậy, mục tiêu xuất khẩu viên nén đạt kim ngạch 1 tỷ USD trong năm 2023 mà VIFOREST đề ra từ đầu năm khó có thể trở thành hiện thực.
Chia sẻ từ một số doanh nghiệp xuất khẩu cho thấy, lượng viên nén của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm không phải là giảm cầu tại thị trường này mà do các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu viên nén từ các nguồn cung khác, bao gồm cả nguồn cung từ Nga.
Thực tế giá xuất khẩu (FOB) sang thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản tháng 12/2022 đạt trung bình khoảng 185 USD/tấn, tăng mạnh từ khoảng 145 USD/tấn tại Nhật Bản và 173 USD/tấn tại Hàn Quốc vào tháng 6 trong cùng năm. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, giá xuất khẩu lao dốc. Giá xuất khẩu tháng 4 năm 2023 vào Nhật giảm còn 167 USD/tấn trong khi giá tại Hàn Quốc chỉ còn 111 USD/tấn. Giá xuất khẩu trung bình vào Hàn Quốc trong tháng 9/2023 chỉ hơi nhích so với trước năm 2022, đạt 115 USD/tấn, tương đương 60% mức giá xuất vào thị trường này vào các tháng cuối năm 2022.
T.S Tô Xuân Phúc (chuyên gia phân tích – Giám đốc Chương trình chính sách, thương mại và tài chính lâm nghiệp – Forest Trends), nhấn mạnh: Ngành viên nén trải qua những biến động thị trường rất lớn trong một năm trở lại đây.
"Sau thời gian “sốt” năm 2022 với lượng xuất khẩu tăng 30% và giá xuất khẩu tăng 150-200%, xuất khẩu viên nén sụt giảm cả về lượng và đơn giá xuất khẩu, đặc biệt là tại thị trường Hàn Quốc. Nếu đà xuất khẩu như hiện nay được duy trì, quy mô xuất khẩu năm 2023 sẽ tụt khoảng 15-17% so với năm 2022", TS Tô Xuân Phúc dự báo.
Tính toán số liệu cho thấy, lượng xuất khẩu viên nén bình quân mỗi tháng của quý 4 năm 2022 vào Hàn Quốc đạt trên 200.000 tấn. Mặc dù xuất khẩu viên nén giảm, nhưng các doanh nghiệp vẫn tin tưởng ngành viên nén vẫn có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại Nhật Bản. Vì vậy, việc một số nước giảm nhập khẩu viên nén trong năm nay không đáng lo ngại.
Theo báo cáo của Công ty tư vấn kinh doanh Grand View Research, thị trường nhu cầu viên nén gỗ trên toàn cầu đang và sẽ có tốc độ độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6,85% trong giai đoạn 2022-2027. Điều này cho thấy, xuất khẩu viên nén có thể "chững" lại trong năm 2023 nhưng cũng có thể bùng tăng trở lại trong năm tới. Hơn nữa, xung đột quan hệ Nga-Ukraina nếu chưa có thay đổi, thì nhu cầu viên nén ở Châu Âu vẫn cao.
Dự báo, nhu cầu thị trường viên nén gỗ toàn cầu sẽ đạt giá trị 17,33 tỷ USD vào năm 2027. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu viên nén lớn thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Bởi sở hữu các ưu điểm như giúp giảm lượng khí thải carbon, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng so với các loại nhiên liệu hóa thạch.
Grand View Research nhận định, việc áp dụng và triển khai ngày càng nhiều các nguồn năng lượng tái tạo thay thế như điện mặt trời, năng lượng gió ở các khu vực khác nhau trên thế giới có khả năng cản trở sự tăng trưởng của thị trường viên nén trong tương lai. Cùng với đó, công nghệ viên gỗ nén cũng đã được nâng cấp để tăng hiệu quả chuyển đổi năng lượng, giảm lượng tro và khí thải. Với những diễn biến này, thị trường xuất khẩu viên nén trong những năm tới sẽ cạnh tranh khốc liệt về công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Nếu các doanh nghiệp sản xuất viên nén tại Việt Nam chậm đổi mới công nghệ nhằm giảm giá thành, tăng hiệu suất nhiệt lượng, giảm lượng phát thải, thì nguy cơ sẽ bị nhiều nước “qua mặt” giành lấy thị trường xuất khẩu viên nén. Do đó, đổi mới công nghệ sản xuất là vấn đề rất quan trọng để DN có thể giữ được thị trường xuất khẩu cũng như mở rộng thị trường.
Theo TS.Tô Xuân Phúc, để nắm bắt cơ hội, nhà quản lý cần có các cơ chế chính sách hợp lý, đặc biệt là chính sách về cân bằng giữa năng lực chế biến và vùng nguyên liệu rừng trồng. Cụ thể, các cơ quan quản lý tại các địa phương phải tính toán khả năng cung gỗ nguyên liệu của các diện tích rừng trồng (và các cơ sở chế biến) trong phạm vi địa phương của mình, đánh giá năng lực và công suất của các dự án chế biến, dựa trên đó quyết định cấp phép cho các dự án này theo khả năng cung nguyên liệu.
“Cơ chế, chính sách hỗ trợ cũng có thể là gián tiếp, thông qua các công cụ nhằm khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ nội địa mặt hàng này, bao gồm ưu đãi về giá điện sử dụng viên nén, ưu đãi đối với các doanh nghiệp chuyển đổi từ nguyên liệu phát thải cao sang sử dụng viên nén. Thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách dành riêng cho ngành viên nén sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy ngành phát triển bền vững trong tương lai”, ông Phúc nhấn mạnh.