Ngũ Bội Tử là tổ đã phơi hay sấy khô của ấu trùng sâu Ngũ bội tử (Melaphis chenensis) ký sinh trên cây muối (Rhú chinensis), thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Ngũ bội tử còn có tên khác là bầu bí, măc piêt, bơ pật,… . Tên khoa học là Galla sinensis.
Ngũ bội tử có dạng túi hinh trứng gọi là Đỗi bội hoặc hình củ ấy gọi là Giasc bội, phân nhánh nhiều hay ít nguyên hoặc vỡ đôi vỡ ba.
Đỗi bội : có hình trứng hoặc hình thoi, dạng nang. Mặt ngoài mafunaau xám, hơi có lông tơ mềm, chất cứng giòn, dễ vỡ vụn. Mặt trong phẳng, trơn, khoang rỗng có chữa xác chết của ấu trùng màu nâu đen, và chất bột bài tiết ra màu xám. Mùi đặc biệt, vị se.
Giác bôi: có hình củ ấu, phân nhánh, không đều, dạng sừng , mặt ngoài có lông tơ mềm rõ rệt, vách tổ tương đối mỏng.
Tháng 5, 6 là thời điểm sâu bắt đầu phát triển, phá hủy cây và tạo ra các nốt sần. Các ngũ bội tử này sẽ được thu hoạch vào tháng 9 hằng năm.
Ngũ bội tử sau khi thu hoạch sẽ được luộc trong nước sôi 3-5 phút đến khi mặt ngoài có màu tro nhằm giết chết con sâu bên trong. Sau đó vớt chúng ra rồi mới đem phơi hoặc sấy khô. Ngũ bội tử khô sẽ được cất trong túi nilon kín hoặc chai, lọ có nắp đậy và để ở nơi khô ráo, thoáng mát.
Ngũ bội tử là một vị thuốc rất đặc biệt. Nó chứa một chất gọi là tanin. Tỷ lệ tanin có trong ngũ bội tử ở Việt Nam thường là 50%, loại tốt có thể lên tới 60-70%, thậm chí là 80%. Tanin còn được biết đến với tên gọi acid galotanic, khi thủy phân sẽ cho acid galic. Ngoài tanin, dược liệu ngũ bội tử còn có acid galic tự do, chất béo, nhựa và tinh bột.
Theo Y học cổ truyền, dược liệu ngũ bội tử có vị đắng chua, mặn, tính bình. Nó tác dụng vào 3 kinh là thận, can và phế. Với thành phần hóa học đa dạng, ngũ bội tử có nhiều công dụng trị bệnh khác nhau.
Ngũ bội tử được dùng như một bài thuốc hiệu quả chữa các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa như: Tiêu chảy lâu ngày, lỵ, đi tiểu ra máu... Đây cũng là một vị thuốc để trị nhọt độc, các vết loét trong miệng. Trị ho lâu ngày, ngực nóng.
Công dụng của ngũ bội tử trong điều trị bệnh được đảm nhiệm chủ yếu bởi tanin có trong thành phần. Với thành phần là tanin, ngũ bội tử có khả năng cầm máu rất tốt. Các vết loét trên da, niêm mạc, tổ chức khi tiếp xúc với tanin sẽ tủa và đanh lại, tạo thành một lớp cứng làm máu đông lại và ngừng chảy. Nhờ đó mà có thể cầm máu. Tanin còn tác dụng lên dây thần kinh làm đầu dây thần kinh cứng lại, do đó có tác dụng gây tê.
Một công dụng của ngũ bội tử không thể thiếu đó là khả năng giải độc. Tanin có thể tác dụng tủa với các chất ancaloit, làm giảm sự hấp thụ để giải độc cơ thể. Dựa vào khả năng này của tanin mà nó được dùng để tạo nên các loại thuốc giải độc.
Dược liệu ngũ bội tử có thành phần là axit galic. Chất này có khả năng chống lại nhiều loại tế bào ung thư. Do đó, đây cũng là một thành phần trong các thuốc điều trị ung thư.
Ngoài ra, ngũ bội tử còn được biết đến với khả năng giảm đau hiệu quả. Trong trường hợp có tổn thương phổi do thuốc lá gây ra, ngũ bội tử cũng là một vị thuốc điều trị đem lại kết quả cao.
Các bài thuốc sử dụng dược liệu ngũ bội tử
Trị xuất huyết đường tiêu hóa trên: Ngũ bội tử 6g rửa sạch đem sắc với nước, sắc đến khi còn lại 100ml, chia lần 3 lần uống, dùng trong ngày.
Trị bệnh trĩ: 500g ngũ bội tử (tán vụn), thêm vào khoảng 1 lít cồn 52.5%, cho vào bình thủy tinh đậy kín, ngâm trong vòng 30 – 60 ngày. Sau đó lọc lấy nước, nấu sôi để vô trùng. Khi dùng, nên vệ sinh vùng hậu môn và chích trực tiếp vào búi trĩ.
Trị di tinh: Ngũ bội tử đi nghiền thành bột mịn, thêm vào lượng nước muối sinh lý vừa đủ trộn đều làm thành hồ, sao đó phết vào cao dán 3×4 và đem dán vào huyệt Tứ mãn (huyệt vị nằm ở dưới rốn 2 thốn và đo ngang trái – phải 0.5 thốn). Cứ 3 ngày thay miếng dán 1 lần.
Trị sẹo do bỏng: Giấm đen 250ml + ngũ bội tử 8 – 100g + mật ong 18g + ngô công 1 con tán bột. Đem trộn đều thành cao, sao đó phết vào miếng vải đen và dán lên vùng sẹo bỏng. Cứ 3 – 5 ngày thay 1 lần cho đến khi sẹo liền lại.
Chữa chứng trẻ nhỏ bị trớ: Chích cam thảo 20g + ngũ bội tử (nửa sống nửa nướng chín) 3g. Đem các vị trên tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng 2g thuốc bột uống với nước cháo hoặc nước cơm.
Trị tưa miệng: Băng phiến 3g + bột ngũ bội tử 20g. Tán thành bột mịn, sau đó thổi vào lưỡi. Thực hiện ngày 2 lần cho đến khi khỏi.
Chữa đau bụng đi ỉa lỏng: Ngũ bội tử tán thành bột mịn thêm hồ vào, làm thành viên hoàn nhỏ bằng hạt đậu xanh, ngày uống 15 – 20 viên, sắc thêm nước bạc hà để úng cùng.
Chữa xuất tinh sớm: Hạt tiêu và ngũ bội tử mỗi vị 20g + khổ sâm và địa phu tử mỗi vị 30g. Cho tất cả vào sắc lấy nước uống hằng ngày.
Trẻ con bị trớ: Ngũ bội tử 3g, chia làm 2 nửa một nửa để sống, một nửa nướng chín, thêm vào 20g trích cam thảo. Tất cả đem đi tán nhỏ. Mỗi lần dùng 2g bột này, dùng nước cơm hay nước cháo mà chiêu thuốc
Lưu ý: Nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng các thông tin trên để chữa bệnh. Nếu trong quá trình sử dụng có dấu hiệu bất thường về sức khỏe, cần dừng lại và tham khảo ý kiến bác sĩ.