Đặc điểm của trúc nhự
Trúc nhự là vị thuốc được chế từ lớp màng mỏng nằm ngay dưới vỏ xanh của cây tre hoặc cây vầu – những loài thực vật mọc hoang hoặc được trồng phổ biến ở nhiều vùng miền trên cả nước. Vị thuốc này còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như trúc nhị thanh, tinh cây tre hay đạm trúc nhự. Tên khoa học của trúc nhự là Caulis bambusae in Taeniam, thuộc họ Lúa (Poaceae).
![]() |
Trúc nhự là vị thuốc được chế từ lớp màng mỏng nằm ngay dưới vỏ xanh của cây tre hoặc cây vầu |
Người ta thu lấy trúc nhự từ thân tre, sau khi cưa thành từng đoạn sẽ loại bỏ các mắt tre, cạo vỏ xanh bên ngoài để lấy lớp màng phía dưới – phần được đánh giá là “nhị thanh trúc nhự” chất lượng tốt nhất. Có thể tiếp tục cạo sâu hơn để lấy lớp màu trắng vàng, nhưng hiệu quả không bằng. Trúc nhự có thể thu hoạch quanh năm, song mùa thu đông là thời điểm cho dược liệu tốt nhất.
Tre là loài thực vật sống lâu năm, thân rễ ngầm, phát triển chồi măng ăn được. Cây trưởng thành cao từ 10 đến 18 mét, thân rỗng, ít phân nhánh, gồm khoảng 30 đốt hoặc nhiều hơn. Lá tre nhỏ, hình mác dài từ 7–16 cm, rộng 1–2 cm, mép nguyên, màu xanh nhạt, nổi rõ gân song song.
Điều đặc biệt là cây tre chỉ ra hoa và kết quả một lần duy nhất trong đời. Sau khi kết hạt, cây sẽ chết – hiện tượng tự nhiên nhưng lại thường bị người dân hiểu lầm là điềm xấu. Một số loài tre vầu thường dùng gồm tre ngà (Bambusa blumeana), hóp (Bambusa multiplex)… Tại Trung Quốc, người ta dùng giống vầu Phyllostachys nigra var. henonis thuộc cùng họ để làm thuốc.
Cây tre được khai thác toàn diện: thân dùng làm vật liệu xây dựng, đan lát; lá dùng làm thuốc hoặc thức ăn cho gia súc.
Bên cạnh trúc nhự, cây tre còn là nguồn nguyên liệu cho nhiều vị thuốc quý khác như trúc diệp (lá non, búp tre tươi hoặc sấy khô), và nước ép cật tre – được chế từ đốt non của tre trúc bánh tẻ, hơ nóng rồi ép lấy nước.
Thành phần hóa học
Hiện nay, thành phần hóa học cụ thể của trúc nhự vẫn chưa được xác định rõ. Các nghiên cứu vào năm 1958 do Hệ Dược thuộc Viện Y học Bắc Kinh (Trung Quốc) tiến hành cũng không phát hiện được hoạt chất nổi bật nào. Trúc nhự không cho phản ứng dương tính với các nhóm chất như alkaloid, glycosid hay tanin.
![]() |
Dược liệu trúc nhự. |
Theo y học cổ truyền
Trúc nhự là vị thuốc quen thuộc trong y học cổ truyền, được ghi chép từ rất sớm trong các thư tịch cổ như “Thần nông bản thảo” (Trung Quốc) và “Nam dược thần hiệu” của danh y Tuệ Tĩnh (Việt Nam, thế kỷ XIV).
Theo các sách cổ, trúc nhự có vị ngọt, tính hơi hàn, quy vào ba kinh: phế, vị và can. Tác dụng chính gồm thanh nhiệt, lương huyết, trừ phiền, chỉ ẩu (giảm nôn) và an thai. Thường được dùng chữa các chứng sốt cao, buồn bực, nôn ói, chảy máu cam, băng huyết hoặc động thai do nhiệt.
Trước khi sử dụng, trúc nhự thường được sao với nước gừng. Liều dùng thông thường từ 10 – 20g dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng riêng hoặc kết hợp với các vị thuốc khác.
Các bài thuốc có sử dụng trúc nhự
Là một vị thuốc Nam quý, trúc nhự được ứng dụng linh hoạt trong nhiều bài thuốc cổ truyền:
Chữa viêm đại tràng mạn tính: Trúc nhự 8g, phối hợp cùng cúc hoa, sài hồ, đương quy, nhân trần, chi tử, vỏ khế, đảng sâm, chỉ thực, thương truật, bạch thược, táo nhân (12g mỗi vị), bạc hà (6g). Sắc uống mỗi ngày một thang, dùng liên tục 5 ngày.
Chữa viêm thanh quản, mất tiếng: Trúc nhự, lá tre, tang bạch bì (12g mỗi vị), kết hợp thổ bối mẫu, thanh bì, cát cánh (8g mỗi vị), nam tinh chế (6g), gừng tươi (4g). Dùng trong liệu trình 10 ngày.
Trị cảm cúm, ho có đờm vàng: Dùng trúc nhự, sài hồ, phụ tử, cát cánh (8g mỗi vị), hoàng liên, phục linh, mạch môn (12g mỗi vị), sinh khương, trần bì (10g mỗi vị), bán hạ (6g), cam thảo (4g). Sắc uống 3–5 ngày.
Trị ho đờm vàng đặc: Trúc nhự, hoàng cầm, qua lâu (12g mỗi vị). Dùng trong 10 ngày.
Giảm nôn khi mang thai: Trúc nhự (6g) kết hợp đẳng sâm (16g), bạch truật, ý dĩ (12g mỗi vị), trần bì, bán hạ chế (8g mỗi vị), gừng tươi (3 lát). Uống trong 5 ngày.
Chữa mất ngủ, hồi hộp: Trúc nhự và mạch môn (16g mỗi vị), sắc uống trong ngày. Liệu trình thường kéo dài 10 ngày.
Chữa đờm nhiều, mất ngủ, miệng đắng: Trúc nhự (8g), phối hợp với chỉ thực, trần bì, bán hạ (6g mỗi vị), phục linh, sinh khương (12g mỗi vị), cùng 3 quả đại táo.
Trị rong kinh: Trúc nhự sao khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 12g pha với nước nóng.
Ngoài ra, trúc nhự tươi có thể nấu với gạo tẻ thành cháo loãng, dùng cho người bệnh dạ dày – ruột, nôn mửa kéo dài. Kinh nghiệm dân gian còn kết hợp trúc nhự với nhiều vị thuốc Nam khác để chữa các chứng như nấc cụt, khát nước, hôi miệng, tiểu đỏ, táo bón do nhiệt.
Lưu ý khi sử dụng
Trúc nhự hiện được bày bán phổ biến tại các hiệu thuốc Đông y và phòng khám y học cổ truyền. Tuy nhiên, tình trạng thuốc giả, thuốc không rõ nguồn gốc vẫn còn nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị và sức khỏe người bệnh. Do đó, cần thận trọng lựa chọn nơi mua uy tín, có giấy phép rõ ràng, đồng thời tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào, kể cả thuốc Nam.
![]() |
![]() |
![]() |