Đã đến lúc nông nghiệp vươn tới những giá trị thặng dư cao hơn. |
Ngành nông nghiệp lập nhiều kỷ lục mới
Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai kế hoạch năm 2025, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết: Giá trị sản xuất toàn ngành ước tăng trưởng 3,3%. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02%. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 78,7%. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp quy chuẩn đạt 58%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023. Xuất siêu cũng lập kỷ lục mới với 17,9 tỷ USD, tăng 46,8% và chiếm tới 71,6% xuất siêu cả nước năm 2024 (xuất siêu cả nước khoảng 25 tỷ USD).
Trong đó, xuất khẩu nông sản chính đạt 32,8 tỷ USD, tăng 22,4%; chăn nuôi 533,6 triệu USD, tăng 6,5%; lâm sản chính 17,28 tỷ USD, tăng 19,4%; thủy sản: 10,07 tỷ USD, tăng 12,2%. Có 7 hàng/nhóm mặt hàng xuất khẩu trên 3 tỷ USD (tăng 1 sản phẩm so với năm 2023) gồm: gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,2 tỷ USD; rau quả 7,12 tỷ USD; gạo 5,75 tỷ USD; cà phê 5,48 tỷ USD; hạt điều 4,38 tỷ USD; tôm 3,86 tỷ USD; cao su 3,46 tỷ USD..
Cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch, điều chỉnh phù hợp, tích hợp đa giá trị, hiệu quả hơn gắn với thị trường, tăng tỷ trọng các tiểu ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và giá trị cao. Ngành cũng chuyển đổi mạnh mẽ tư duy sang kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng hàng nông sản; từng bước thay đổi từ cách tiếp cận nông nghiệp nâu sang nông nghiệp xanh, tăng cường áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đáng chú ý, ngành đã tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Tăng trưởng của ngành nông nghiệp đã vượt xa mục tiêu của nhiệm kỳ 2021-2025. Tuy nhiên, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, ngành nông nghiệp phải định hướng những nhiệm vụ mới, làm sao để tăng tốc, đột phá hơn nữa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, từ trước đến nay, sản xuất nông nghiệp chủ yếu tạo ra nông sản, thực phẩm. Nếu chỉ khai thác dưới khía cạnh thực phẩm, thì chúng ta mới tận dụng được tầng thấp nhất, trong khi bất kỳ một nông sản nào cũng đều có giá trị dược liệu, dược phẩm, mỹ phẩm và cả năng lượng. Chẳng hạn mật ong, nếu bán dưới dạng thực phẩm thì giá trị không đáng là bao, nhưng nếu chiết xuất ra các sản phẩm mỹ phẩm thì giá trị sẽ cao hơn nhiều lần.
“Đã đến lúc, sản xuất nông nghiệp phải được kết nối để tạo ra đa tầng giá trị hơn, tìm kiếm những giá trị thặng dư cao hơn, để Việt Nam không bỏ lỡ thời cơ trong giai đoạn hiện nay”, người đứng đầu ngành nông nghiệp khẳng định.
Bộ trưởng phân tích, nông nghiệp tuần hoàn là hướng đi tất yếu. Lâu nay nông dân mới biết cách trồng cây lúa, lấy hạt gạo đem bán, mà đôi khi quên mất rằng rơm rạ, trấu... có thể làm “giá thể”, hoặc làm viên nén cho năng lượng sinh khối. Chúng ta đừng nhìn vào giá trị của một nông sản cụ thể, bởi đó là tầng thấp nhất trong chuỗi giá trị (bán thô sản phẩm). Nếu cứ giữ cái nhìn cục bộ, đơn ngành, thì rất khó để tăng giá trị cho nông sản.
Đã đến lúc nông nghiệp vươn tới những giá trị thặng dư cao hơn
Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan. |
Từ những câu chuyện về nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh vừa tạo ra được nhiều dòng sản phẩm hơn từ một sản phẩm bỏ đi mà còn có thể giúp bảo vệ môi trường, không để bất cứ thứ gì thành rác. Trong cơn mưa, nhìn xuống đất thì thấy bùn, nhưng nếu nhướng mắt ra xa lại thấy cầu vồng. Muốn thấy cầu vồng thì chắc chắn phải chịu khó một chút. Có lẽ, đó sẽ là tư duy tích cực trước khi bước vào Kỷ nguyên mới.
Về phát triển rừng, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết: Chúng ta phải nhận thấy rằng rừng không chỉ là gỗ mà còn là hệ sinh thái đa tầng, đa tán. Trong rừng có rất nhiều tài nguyên bản địa như thảo dược, nấm, sâm… Rừng là cảnh quan là sinh cảnh, là môi trường để đời sống của bà con dân tộc có thể nương tựa, họ có cả văn hóa với rừng, “tâm linh” rừng.
Trước đó, chúng ta chỉ nghĩ rừng để khai thác gỗ, đến khi không khai thác được thì đóng cửa rừng. Có những lúc chúng ta lại khoanh vùng bảo vệ rừng, bằng cách đưa bà con ra bên ngoài. Trong khi đó, với những người đã quen sống với rừng, coi rừng là rất thiêng liêng, là kho báu nuôi dưỡng bao nhiêu thế hệ, thì không cách nào khác là phải tạo ra những hoạt động, tạo ra giá trị đa dụng hệ sinh thái rừng.
Nhiều người chất vấn tôi về việc kinh phí trả cho bà con để bảo vệ, chăm sóc rừng thấp quá. Tôi trả lời rằng, con người, đôi khi không chỉ quan trọng vấn đề tiền bạc, quan trọng là bà con có hoạt động gì dưới tán rừng. Bà con người Dao, người Mông đều có những bài thuốc nam từ rừng, vậy là đã tạo ra một sản phẩm rồi. Thay vì chỉ đơn thuần trả kinh phí để bà con bảo vệ rừng, thì chúng ta cần tổ chức lại để bà con làm kinh tế dưới tán rừng. Từ đó trở thành những cộng đồng đầy sức sống dưới các tán rừng, kết với với truyền thống văn hóa riêng của từng dân tộc.
“Chúng ta hãy trao cho bà con “quyền” chứ không chỉ đưa gạo, lương thực để cứu trợ hay đem tiền để người ta yêu quý rừng. Tôi đã trình bày với Thủ tướng Đề án phát huy đa dụng giá trị hệ sinh thái rừng, cùng với đó sẽ sửa đổi Luật Lâm nghiệp. Chúng tôi chuẩn bị trình một nghị định về khai thác giá trị dược liệu dưới tán rừng. Nhiệm vụ của chúng ta là tổ chức lại và hướng dẫn cách trồng, quy trình canh tác cây dược liệu làm sao để không phá vỡ hệ sinh thái nguyên sinh của rừng”, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết thêm.
Ngoài phát triển kinh tế từ rừng, còn có thể cho thuê dịch vụ môi trường rừng, cho thuê đất rừng để bà con làm du lịch cộng đồng. Khi làm du lịch thì tất cả các tài nguyên bản địa từ tre nứa, thuốc thảo dược… sẽ trở thành sản phẩm bán cho du khách.
Nhìn xuống biển, Bộ trưởng cho rằng, biển đâu chỉ có con cá, con tôm, còn biết bao rặng san hô, những rong sụn, rong nho cho sinh kế bền vững, góp phần tạo tín chỉ carbon. Đó là một nền kinh tế mà chúng ta chưa thực sự dấn sâu vào. Đã có một vài doanh nghiệp thử nghiệm tại Khánh Hòa, nhưng rõ ràng chúng ta chưa thể sánh với người Hàn Quốc, Nhật Bản. Sáng nào họ cũng ăn rong biển giàu dinh dưỡng. Với họ, đó thực sự là một ngành kinh tế, một giá trị bền vững.
Đối với bà con ngư dân, thay vì quanh quẩn trong khu vực Biển Đông và tiềm ẩn nguy cơ bị cảnh báo thẻ vàng IUU, vì sao chúng ta không thành lập những đội tàu viễn dương, vượt ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế để tới những quốc đảo ở Thái Bình Dương, nơi có nguồn thủy hải sản trù phú? Tôi từng trao đổi với lãnh đạo một số quốc gia có vùng biển chồng lấn với Việt Nam. Họ đề nghị phương án cùng thành lập các đội tàu đi khai thác xa bờ. Ở đó, Nhà nước sẽ cùng đầu tư hiện đại hóa những con tàu, đồng thời hướng dẫn cho người dân biết luật pháp, biết kỹ năng bảo quản thủy sản khai thác.
“Một doanh nghiệp đơn lẻ muốn khai thác lĩnh vực này thì chẳng khác nào “một lá tre nhỏ nhoi” trên biển. Nhưng nếu chúng ta hình thành một tập đoàn đa ngành, dưới sự hỗ trợ của Nhà nước và định hướng rõ ràng là muốn hiện diện quyền, lợi ích quốc gia ở đó, thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ tránh được cảnh “rụt rè” khi được hưởng cơ chế, chính sách bảo hiểm”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan lưu ý các doanh nghiệp.
Đồng quan điểm, ngành nông nghiệp cần nghĩ khác, làm khác trong kỷ nguyên mới. TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã kiến nghị một số cách tiếp cận, giải pháp nhằm phát huy vai trò, vị thế của nông nghiệp - nông dân - nông thôn.
Thứ nhất, cần phải có bước đột phá về cơ chế chính sách trong vấn đề thu hút đầu tư, chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt trong chuỗi sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, phải tạo điều kiện tiếp tục cởi trói về cơ chế chính sách, hỗ trợ nguồn lực nhiều hơn cho lĩnh vực nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Thực tế hiện nay, dù xác định lĩnh vực này là trụ đỡ của nền kinh tế, là lợi thế của quốc gia nhưng với mức đầu tư dưới 5% trên tổng GDP là quá ít ỏi. Tiềm năng, lợi thế của nông nghiệp Việt Nam rất lớn nhưng nguồn lực manh mún, phân tán là một trong những nút thắt, rào cản khiến lĩnh vực này phát triển chưa thực sự xứng tầm.
Thứ ba, là chính sách đầu tư khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Đây vừa là giải pháp căn cơ, nền tảng vừa là động lực để nông nghiệp Việt Nam bứt phá. Người nông dân Việt Nam tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới rất giỏi, sản xuất rất giỏi nhưng nền tảng khoa học công nghệ trong nông nghiệp của chúng ta còn thấp, cơ cấu phát triển còn manh mún nên cơ hội chinh phục thị trường chưa cao. Chính vì vậy, cần phải có chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, có thể thông qua doanh nghiệp, hợp tác xã để hỗ trợ khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến, chuyển nền nông nghiệp Việt Nam có giá trị gia tăng cao hơn, có thể chiếm lĩnh lợi thế trên thị trường nhiều hơn.
Cuối cùng, trước thời khắc đất nước bước vào kỷ nguyên mới, tôi cho rằng nông nghiệp - nông dân - nông thôn Việt Nam sẽ lại một lần nữa đóng vai trò tiên phong, vai trò nền tảng của kinh tế đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Xứng tầm với vị thế của lĩnh vực lợi thế quốc gia, đồng thời là hồn cốt, bản sắc và lợi thế phát triển mang tính bền vững của Việt Nam.