Nông nghiệp Việt 80 năm: Hành trình trụ đỡ đến phát triển xanh Nông nghiệp Nam Bộ 2025: Vượt thách thức, hướng tới chuỗi giá trị bền vững Bắc Ninh phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững |
![]() |
Quý III/2025 là giai đoạn ngành nông nghiệp chịu nhiều áp lực khi bão, mưa lũ liên tiếp xảy ra tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ảnh: laocai.gov.vn |
Thiên tai, dịch bệnh gây sức ép lên sản xuất nông nghiệp
Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), quý III/2025 là giai đoạn ngành nông nghiệp chịu nhiều áp lực khi bão, mưa lũ liên tiếp xảy ra tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, cùng với dịch tả lợn châu Phi tái bùng phát. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo kịp thời của các cơ quan chức năng và sự chủ động của chính quyền địa phương, toàn ngành vẫn duy trì được nhịp sản xuất ổn định, thể hiện năng lực quản trị và khả năng thích ứng cao.
Về trồng trọt, diện tích gieo trồng lúa hè thu đạt 1,898 triệu ha, giảm nhẹ 10,9 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước do chuyển đổi sang các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặc dù năng suất bình quân giảm 0,6 tạ/ha, nhưng sản lượng vẫn đạt gần 11 triệu tấn – mức giảm không đáng kể nhờ ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác.
Đối với vụ mùa, cả nước gieo cấy được 1,461 triệu ha, giảm nhẹ so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực miền Bắc chịu ảnh hưởng nặng của mưa bão, còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn duy trì tiến độ sản xuất, sâu bệnh được kiểm soát tốt. Các loại cây hàng năm khác nhìn chung phát triển ổn định, với diện tích trồng ngô, khoai lang, đậu tương, lạc và rau các loại gần tương đương năm 2024.
Đáng chú ý, nhóm cây lâu năm tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột với tổng diện tích đạt 3,868 triệu ha, tăng 1,4% so với cùng kỳ; trong đó cây ăn quả tăng 2,1% và cây công nghiệp tăng 0,8%. Nhiều loại cây có mức tăng ấn tượng như sầu riêng 183,9 nghìn ha (tăng 7,4%), cà phê 764,4 nghìn ha (tăng 2,3%) và hồ tiêu 112,6 nghìn ha (tăng 1,4%). Sản lượng của một số loại trái cây chủ lực tăng mạnh, như sầu riêng tăng 17,5%, nhãn tăng 13,5% và vải tăng tới 59% so với cùng kỳ.
Ở lĩnh vực chăn nuôi, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi lan rộng, khiến tổng đàn tại nhiều địa phương giảm sâu: Cao Bằng giảm 36,1%, Quảng Trị giảm 15,1%, Phú Thọ giảm 12,6% và Đà Nẵng giảm 10,6%. Ngược lại, chăn nuôi gia cầm ghi nhận tín hiệu tích cực khi dịch bệnh được kiểm soát, nhu cầu tiêu thụ tăng, giúp các địa phương như An Giang, Lâm Đồng và Cần Thơ tăng đàn từ 7–15%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý III đạt 1,339 triệu tấn thịt lợn (tăng 2%) và 647 nghìn tấn thịt gia cầm (tăng 6,6%).
Lĩnh vực lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ổn định. Diện tích rừng trồng mới trong quý III đạt 71,2 nghìn ha, tăng 0,8%; tính chung 9 tháng, cả nước trồng mới 221,8 nghìn ha rừng (tăng 11%), khai thác 17,963 triệu m³ gỗ (tăng 8,7%) và diện tích rừng bị thiệt hại giảm tới 31%. Trong khi đó, sản lượng thủy sản quý III đạt 2,71 triệu tấn (tăng 3,3%), trong đó nuôi trồng tăng 5,5% nhờ ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt với các sản phẩm chủ lực như cá tra và tôm công nghiệp.
Giải pháp củng cố năng lực quản trị và duy trì đà tăng trưởng
![]() |
Công tác giám sát, khoanh vùng và kiểm soát dịch bệnh được duy trì thường xuyên, đặc biệt là đối với dịch tả lợn châu Phi – hiện vẫn xuất hiện tại 31/34 địa phương. |
Trước những sức ép từ thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu, ngành nông nghiệp đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững. Công tác giám sát, khoanh vùng và kiểm soát dịch bệnh được duy trì thường xuyên, đặc biệt là đối với dịch tả lợn châu Phi – hiện vẫn xuất hiện tại 31/34 địa phương. Nhiều tỉnh đã thực hiện tái đàn có kiểm soát, chuyển sang mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, quy mô tập trung và ứng dụng công nghệ giám sát dịch tễ, qua đó giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trong lĩnh vực trồng trọt, việc điều chỉnh cơ cấu mùa vụ và cây trồng tiếp tục phát huy hiệu quả. Nông dân ở nhiều vùng đã chuyển đổi đất lúa kém năng suất sang cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, kết hợp áp dụng quy trình sản xuất an toàn, hướng tới nông nghiệp hữu cơ. Các địa phương cũng chủ động sử dụng giống cây chịu hạn, chịu mặn, thích ứng tốt với điều kiện khí hậu, góp phần ổn định sản lượng. Việc mở rộng diện tích cây lâu năm như sầu riêng, cà phê, hồ tiêu, cùng đầu tư vào bảo quản và chế biến sau thu hoạch đang giúp nâng tầm giá trị nông sản Việt Nam.
Với lâm nghiệp, trọng tâm được chuyển từ khai thác sang quản trị rừng bền vững, khuyến khích trồng rừng gỗ lớn và phát triển chuỗi giá trị từ trồng, chế biến đến tiêu thụ. Trong khi đó, ngành thủy sản tiếp tục đẩy mạnh các chương trình nuôi trồng ứng dụng công nghệ cao, truy xuất nguồn gốc và đảm bảo an toàn môi trường, giúp sản phẩm cá tra, tôm thẻ và tôm sú duy trì xuất khẩu ổn định.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp chú trọng nâng cao năng lực quản trị ở cả cấp chính quyền và doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và bảo hiểm nông nghiệp được triển khai song hành với đào tạo nguồn nhân lực, phát triển hệ thống dữ liệu số trong quản lý sản xuất. Nhờ đó, dù đối mặt nhiều biến động, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn thể hiện sức chống chịu bền bỉ, đảm bảo chuỗi cung ứng ổn định, giữ vững thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính là nền tảng quan trọng để ngành tiếp tục hướng tới tăng trưởng xanh, bền vững và tự thích ứng trước rủi ro trong tương lai.