Quảng Ngãi: Chỉ đạo sản xuất trồng trọt trong điều kiện dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh |
![]() |
Thu hoạch lúa trên cánh đồng sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng Tháp. Ảnh: Lê Hoàng Vũ. |
Thách thức sản xuất và quản trị chuỗi giá trị
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, năm 2025, diện tích gieo sạ lúa toàn vùng phía Nam đạt hơn 4,1 triệu ha, sản lượng 26,12 triệu tấn, năng suất bình quân 63,43 tạ/ha – đều tăng so với năm trước. Đặc biệt, vụ Đông Xuân 2024-2025 ghi nhận kết quả khả quan với cả diện tích và năng suất cùng tăng, sản lượng gần 11,5 triệu tấn, bù đắp sụt giảm ở các vụ khác. Đây là cơ sở để duy trì ổn định lương thực và xuất khẩu gạo.
Tuy vậy, sản xuất lúa gạo và cây trồng khác đang đối diện không ít khó khăn. Hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng trực tiếp vụ Đông Xuân; mưa lớn, giông lốc gây ngập úng vụ Hè Thu và Thu Đông. Bên cạnh yếu tố thời tiết, chi phí đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống duy trì ở mức cao. Cùng lúc, nông sản Việt Nam phải vượt qua hàng rào kỹ thuật ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế về truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn an toàn.
Ngay trong nội tại ngành, tỷ lệ gieo sạ dày còn phổ biến, gây lãng phí giống, ảnh hưởng đến năng suất dài hạn. Công tác quản lý mã số vùng trồng chưa đồng bộ, khiến việc mở rộng thị trường còn hạn chế. Một số địa phương sau sáp nhập gặp khó trong điều hành, làm chậm tiến độ triển khai các chương trình lớn. Liên kết chuỗi giá trị nông sản, từ sản xuất đến tiêu thụ, vẫn còn lỏng lẻo, khiến nông dân khó tiếp cận mô hình sản xuất hiện đại và bền vững.
Trong khi đó, dư lượng Cadimi trong một số lô hàng nông sản xuất khẩu vẫn là vấn đề nổi cộm, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu gạo Việt Nam. Đây là thách thức trong quản trị chất lượng, đòi hỏi ngành nông nghiệp, địa phương và doanh nghiệp cùng phối hợp kiểm soát chặt chẽ hơn từ khâu giống, canh tác đến thu hoạch, bảo quản.
Bức tranh cây trồng khác cũng có nhiều chuyển biến. Diện tích ngô tăng 8,3%, sản lượng 575 nghìn tấn; khoai các loại tăng 2,4 lần về diện tích; rau, đậu, dưa hấu… đạt 371 nghìn ha, sản lượng hơn 7 triệu tấn. Trái cây vùng Nam Bộ tiếp tục khẳng định vai trò xuất khẩu với sản lượng 7,3 triệu tấn, trong đó mít, cam, xoài, sầu riêng đạt từ hàng trăm nghìn đến hàng triệu tấn. Nhưng sự bùng nổ sản lượng cũng đồng nghĩa với áp lực tiêu thụ, đòi hỏi quy hoạch bài bản hơn về vùng chuyên canh, truy xuất và liên kết thị trường.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa đã đạt gần 38,7 nghìn ha, sang cây hàng năm, cây lâu năm hoặc mô hình lúa – thủy sản, mở ra hướng đi linh hoạt trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này nếu thiếu quản trị tổng thể dễ dẫn đến manh mún, thiếu liên kết chuỗi giá trị, khó tận dụng lợi thế cạnh tranh.
Giải pháp nâng cao năng lực và xây dựng thương hiệu
![]() |
Việc sử dụng hiệu quả thương hiệu và nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice phải gắn liền với xây dựng tiêu chuẩn sản xuất, chế biến phù hợp với hội nhập quốc tế. |
Trước thực tế trên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đưa ra nhiều định hướng quản trị nhằm củng cố sản xuất trồng trọt. Các đơn vị chuyên môn được yêu cầu dự báo sát tình hình thời tiết, hỗ trợ địa phương trong chỉ đạo mùa vụ, đặc biệt là vụ Đông Xuân 2025-2026 khi nguy cơ hạn mặn còn phức tạp. Công tác giám sát chất lượng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phải được siết chặt, song song với cấp mã số vùng trồng, mã số đóng gói cho các địa phương.
Để nâng chất lượng và an toàn nông sản, Bộ chú trọng tập huấn nông dân áp dụng các biện pháp quản lý tiên tiến như IPM (quản lý dịch hại tổng hợp), IPHM (quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp), đồng thời triển khai mạnh mẽ chỉ thị về phát triển phân bón hữu cơ, phân bón tiết kiệm, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc “4 đúng”. Đây là nền tảng để giảm chi phí, tăng chất lượng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ đã ban hành Công điện số 160/CĐ-TTg ngày 9/9/2025, nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường gạo. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp các bộ ngành, địa phương xây dựng vùng chuyên canh lúa quy mô lớn, hoàn thiện thể chế, chính sách, tạo điều kiện cho nghiên cứu và phát triển giống lúa năng suất, chất lượng cao. Đồng thời, việc sử dụng hiệu quả thương hiệu và nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice phải gắn liền với xây dựng tiêu chuẩn sản xuất, chế biến phù hợp với hội nhập quốc tế.
Một giải pháp quan trọng khác là thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất. Công nghệ không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào phân bón, thuốc bảo vệ thực vật mà còn nâng cao khả năng truy xuất, đảm bảo tính minh bạch và tạo lợi thế khi bước vào các thị trường khó tính. Cùng với đó, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng được khuyến nghị đồng hành với nông dân trong cung ứng vật tư, liên kết tiêu thụ và đầu tư vào chuỗi giá trị bền vững.
Trong chiến lược dài hạn, việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam cần đặt lên hàng đầu. Không chỉ dừng ở đảm bảo sản lượng, ngành lúa gạo phải chuyển hướng mạnh mẽ sang chất lượng và bản sắc. Từ các mô hình giảm lượng giống gieo sạ xuống 60-70kg/ha cho thấy hiệu quả trong nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành. Nếu được nhân rộng và quản trị tốt, đây sẽ là chìa khóa nâng tầm giá trị hạt gạo Việt Nam.
Để giải quyết đồng thời bài toán sản xuất, thị trường và thương hiệu, sự phối hợp liên ngành, liên vùng cần được đẩy mạnh. Việc liên kết từ khâu nghiên cứu giống, canh tác, thu hoạch đến chế biến, xuất khẩu sẽ tạo ra chuỗi giá trị khép kín, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi thế cạnh tranh. Khi đó, sản xuất trồng trọt không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần khẳng định vị thế thương hiệu nông sản Việt trên thị trường toàn cầu.