Trồng lúa phát thải thấp giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho người dân Tin vui cho nông dân trồng lúa phát thải thấp ở ĐBSCL Nhiều khó khăn, vướng mắc trong triển khai chuyển nhượng carbon rừng |
Thị trường Carbon: Việt Nam có đang quá thận trọng? |
Ngày 21/11, tại Hà Nội, Tọa đàm trực tuyến: "Phát triển kinh tế xanh trong nông nghiệp, nhìn từ tín chỉ carbon rừng và thực thi Luật Chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR)" đã được tổ chức tại Báo Nông thôn Ngày nay/Dân Việt, nhằm cung cấp cho bà con nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp về cơ hội, thách thức trong phát triển kinh tế xanh trong nông nghiệp.
Điểm nghẽn lớn nằm ở quy định chính sách
Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức không nhỏ trong việc khai thác tiềm năng của thị trường tín chỉ carbon.
Ông Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên môi trường (Bộ TNMT) cho biết, trong các lĩnh vực của NDC (Đóng góp do quốc gia cam kết về ứng phó với khí hậu, bao gồm mục tiêu thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chính sách và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris), lâm nghiệp và trồng trọt là những lĩnh vực ưu tiên được quan tâm. Hiện nay, thế giới cũng đã ghép lĩnh vực lâm nghiệp, chuyển đổi sử dụng đất vào lĩnh vực giảm phát thải của NDC, là yêu cầu để phục vụ chuyển đổi sản xuất sang giảm phát thải, phát triển bền vững.
Đối với đặc thù của Việt Nam, chúng ta đặt mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực là số 1, đất đai là sở hữu toàn dân, đây là điều kiện giúp chúng ta đạt được các mục tiêu phát triển bao trùm, tuy nhiên đó cũng sẽ là thách thức trong việc thực hiện thị trường tín chỉ carbon. Cái khó nữa là đến nay chúng ta vẫn chưa có khung pháp lý thực hiện NDC, chưa có khung chính sách rõ ràng minh bạch để những người chuyển đổi năng lượng, công nghệ, chuyển sang canh tác carbon thấp có thể tận dụng được cơ hội của thị trường tài chính khí hậu.
Rõ ràng cơ hội là rất lớn, đặc biệt là tại COP26 các nước đã cam kết tăng hỗ trợ cho tài chính khí hậu, thích ứng cũng như hỗ trợ cho các nước chịu tổn thất do biến đổi khí hậu, trong đó Nhóm G20 cũng đã hỗ trợ cho các nước thực hiện thành công, vậy thì Việt Nam làm gì để tận dụng cơ hội thực hiện nguồn tài chính khí hậu này? Nếu chậm thì người nông dân sẽ không có được nguồn hỗ trợ thực hiện giảm thiệt hại và tổn thất do biến đổi khí hậu.
Do đó tôi cho rằng, các bộ ngành, đặc biệt là Bộ NN&PTNT, Bộ TNMT cần thực hiện xây dựng chính sách rõ ràng minh bạch về vấn đề này, cái gì thuộc về vai trò, nhiệm vụ của người dân, cái gì là nhiệm vụ của doanh nghiệp, chính quyền địa phương…, mục tiêu nhằm đảm bảo công bằng giữa người dân và doanh nghiệp; đảm bảo công bằng giữa người dân miền ngược với miền xuôi, người dân hiện nay và mai sau.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay thì người dân tộc thiểu số, phụ nữ, người yếu thế là những đối tượng chịu thiệt thòi nhiều nhất, trong khi những người dân ở đồng bằng lại được hưởng lợi nhiều hơn từ tăng trưởng kinh tế. Vì thế tôi cho rằng, áp dụng nguyên tắc người phát thải phải trả phí sẽ tạo ra sự cân bằng trong việc áp dụng chính sách.
Theo ông Thọ, ở góc độ kỹ thuật, Việt Nam hiện phát triển chậm thị trường tín chỉ carbon do điểm nghẽn lớn nằm ở quy định chính sách. Trong khi nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan hay Singapore đã có thị trường mua bán tín chỉ carbon với sự đầu tư lớn và chính thức, chúng ta vẫn thiếu khung pháp lý rõ ràng. Ví dụ, Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã quy định về rừng trồng và rừng tự nhiên, nhưng lại chưa làm rõ các cơ chế liên quan đến tín chỉ carbon. Nhà đầu tư muốn tham gia cần biết cơ chế chia sẻ lợi ích, nhưng điều này hiện chưa được quy định cụ thể, gây khó khăn trong việc thu hút đầu tư vào các dự án rừng tự nhiên.
Với rừng tự nhiên, hiện nay chủ yếu được quản lý bởi các ban quản lý rừng, nhưng nguồn lực từ nhà nước đầu tư vào đây còn hạn chế. Do đó, cần có cơ chế khuyến khích khu vực tư nhân và quốc tế tham gia đầu tư, với chính sách rõ ràng về chia sẻ lợi nhuận để phát triển rừng và giảm phát thải. Trong khi đó, với rừng trồng, Việt Nam đang có cơ hội lớn. Các dự án gỗ lớn không chỉ tăng sản lượng gỗ mà còn tạo lợi ích kép từ tín chỉ carbon. Tuy nhiên, nếu cơ chế chia sẻ lợi ích không được làm rõ, chúng ta sẽ khó đạt được hiệu quả mong muốn. Thực tế, một hecta rừng trồng từ dự án gỗ lớn trong 10 năm đã tạo thêm 120.000 tấn CO2. Với 2 triệu hecta rừng trồng hiện có, đây là cơ hội rất lớn để gia tăng năng suất và lợi ích kinh tế.
Để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả và tiến ra quốc tế, cần có quy trình công nhận rõ ràng. Tuy nhiên, trước mắt, phát triển thị trường tín chỉ carbon nội địa vẫn là hướng đi khả thi hơn. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vào công nghệ để vừa giảm phát thải, vừa tạo nguồn lực tài chính bổ sung, thúc đẩy nông nghiệp bền vững và phát triển xanh.
Thực tế cho thấy, nguồn lực trong nước ổn định nhưng cần sự thay đổi từ công tác quản lý đến người trồng rừng. Việt Nam đã có kinh nghiệm qua hai chương trình phát triển lâm nghiệp quốc gia, đủ năng lực và đội ngũ để tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, việc giám sát thị trường tín chỉ carbon cần sự quản lý chặt chẽ từ Nhà nước để tránh trùng lặp giao dịch. Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng trong việc xây dựng niềm tin và đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường này.
Chia sẻ khi đang dự Hội nghị COP29 tại Azerbaijan, ông Nguyễn Đình Thọ cho rằng Việt Nam đang làm tốt các dự án phát thải trong nông nghiệp, lâm nghiệp.
Tuy nhiên, để một dự án bán được tín chỉ carbon mất khá nhiều thời gian. Hiện thời gian triển khai dự án carbon khoảng 1-1,5 năm mới xong phần cơ sở. Việc kiểm kê khí nhà kính của dự án mất 3 năm. Sau đó, để dự án bán được tín chỉ carbon cần thêm 3-5 năm nữa.
Việt Nam đặt mục tiêu tạo ra 25 triệu tấn tín chỉ carbon tới năm 2025. Ông Trần Hiếu Minh, Trưởng phòng Khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế (Cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT) cho hay nhiều đối tác đang bày tỏ quan tâm tới chuyển nhượng tín chỉ carbon.
"Nếu không tận dụng kịp thời, chúng ta có thể bỏ lỡ cơ hội, bởi tín chỉ carbon càng lâu sẽ giảm giá trị, ảnh hưởng đến mức giá khi giao dịch", ông Minh chia sẻ.
Lối đi nào cho Carbon Việt Nam?
Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT) (bên trái) chia sẻ tại tọa đàm. |
Ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT), chia sẻ rằng hiện nay, thị trường tín chỉ carbon toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những lĩnh vực giao dịch sôi động nhất. Tín chỉ carbon không chỉ được xem như một loại hàng hóa mà còn là công cụ thiết yếu để thực hiện cam kết giảm phát thải toàn cầu.
Hai thị trường tín chỉ carbon chính:
Thị trường tự nguyện (Voluntary Carbon Market - VCM): Đây là nơi các tổ chức, công ty, hoặc quốc gia thực hiện các giao dịch tín chỉ carbon thông qua thỏa thuận song phương hoặc sàn giao dịch. Người mua tín chỉ nhằm đáp ứng mục tiêu giảm phát thải carbon, tiến tới Net Zero – mục tiêu mà họ tự công bố để minh bạch hóa nỗ lực giảm dấu chân carbon.
Thị trường bắt buộc (Compliance Carbon Market - CCM): Đây là nơi giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon để doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp luật về giảm phát thải. Hiện nay, 48 quốc gia đã thành lập thị trường carbon bắt buộc, điển hình là các chính sách thuế carbon – một biện pháp kinh tế hiệu quả nhằm thúc đẩy các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm tài chính cho lượng khí nhà kính mà họ phát thải.
Giá tín chỉ carbon trên thị trường rất đa dạng, dao động từ 1-2 USD/tín chỉ cho đến mức gần 200 USD/tín chỉ, tùy thuộc vào:
Loại hình dự án tạo ra tín chỉ carbon. Tiêu chuẩn áp dụng (như Verra, VCS, Gold Standard, hoặc American Carbon Registry). Các lợi ích đi kèm và địa điểm giao dịch.
Một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, và Úc đã phát triển tiêu chuẩn quốc gia riêng cho tín chỉ carbon. Những tiêu chuẩn này vừa hỗ trợ mục tiêu giảm phát thải, vừa khuyến khích đầu tư tư nhân. Các doanh nghiệp tại đây không chỉ thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải mà còn chủ động áp dụng cơ chế tự nguyện trong sản xuất và kinh doanh, minh bạch hóa quá trình để đáp ứng sự giám sát từ cộng đồng quốc tế.
Tại Việt Nam, Bộ NN&PTNT đang gấp rút hoàn thiện tiêu chuẩn về tín chỉ carbon rừng. Mục tiêu là xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh, tạo điều kiện thu hút đầu tư và vận hành hiệu quả thị trường tín chỉ carbon trong nước. Điều này không chỉ góp phần giảm phát thải mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững cho nền kinh tế lâm nghiệp Việt Nam.
Tín chỉ carbon cần được xem như là tài nguyên quốc gia |
Thủ tướng yêu cầu sớm thiết lập hệ thống đăng ký quốc gia về tín chỉ carbon |
Nông dân sẽ được hưởng lợi gì khi trồng lúa giảm phát thải carbon? |