![]() |
| Việc áp dụng công nghệ hiện đại và cơ cấu giống chất lượng cao giúp ngành gạo Việt đạt kỷ lục về năng suất và chất lượng, đồng thời đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. |
Thách thức trong sản xuất lúa gạo xanh
Việc sản xuất lúa gạo bền vững, vừa đạt chất lượng cao vừa giảm phát thải đang là bài toán lớn đối với ngành lúa gạo Việt Nam. Ông Lê Thanh Tùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA), nhấn mạnh, Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát động vượt ra khỏi quy mô của một chuỗi ngành hàng đơn thuần, mà đã hình thành một hệ sinh thái lúa gạo. “Đề án không phải là thương hiệu mà là một quy trình kỹ thuật canh tác nhằm giảm chi phí, giảm phát thải, tăng thu nhập cho nông dân và thân thiện với môi trường,” ông Tùng chia sẻ.
Theo ông Tùng, thành công của Đề án nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, doanh nghiệp và nông dân. Đây là lần đầu tiên một đề án thu hút nhiều tổ chức, cá nhân tham gia trên phạm vi toàn quốc. Điều này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền nông nghiệp bền vững, giảm phát thải, đồng thời nâng tầm thương hiệu gạo Việt.
Đối với doanh nghiệp, lợi ích nổi bật là sở hữu một sản phẩm cụ thể: những hạt gạo phát thải thấp được sản xuất theo quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt và thân thiện môi trường, từ đó tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm. Vào tháng 4/2025, VIETRISA cấp chứng nhận nhãn “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” lần đầu cho 7 doanh nghiệp với tổng sản lượng 19.200 tấn, trong đó Công ty Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã xuất khẩu 500 tấn sang Nhật Bản, đánh dấu bước tiến quan trọng trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp khác cũng đang xây dựng chiến lược mở rộng tiêu thụ tại thị trường nội địa, tận dụng cơ hội phân khúc cho các loại gạo được dán nhãn xanh, phát thải thấp.
Ông Tùng cũng chia sẻ, dù hiện mới có khoảng 70.000 tấn gạo Việt được dán nhãn xanh phát thải thấp – một con số nhỏ so với sản lượng mấy chục triệu tấn mỗi năm – nhưng đây là khởi đầu đáng khích lệ, tạo động lực cho nông dân và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc sản xuất gạo carbon thấp. Tiêu chuẩn nhãn hiệu yêu cầu nguồn gốc sản phẩm từ vùng sản xuất theo Đề án, quy mô hợp tác xã hoặc liên hợp tác xã kề nhau trong một xã, tuân thủ Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, lúa gạo phải được thu gom, tồn trữ và chế biến riêng biệt, đảm bảo không lẫn lộn với các nguồn gốc khác.
Ông Tùng nhấn mạnh, Việt Nam có thể cung ứng gạo quanh năm nhờ mùa vụ linh hoạt, đồng thời đáp ứng thị hiếu khách hàng với gạo trắng, hạt dài, mềm, thơm nhẹ, khác biệt so với các loại gạo đặc sản như Basmati hay Hom Mali. Việc áp dụng công nghệ hiện đại và cơ cấu giống chất lượng cao giúp ngành gạo Việt đạt kỷ lục về năng suất và chất lượng, đồng thời đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao giá trị kinh tế cho doanh nghiệp mà còn góp phần hiện thực hóa cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 của Chính phủ vào năm 2050.
Giải pháp nâng chất lượng và phát thải thấp
![]() |
| Gạo Việt không chỉ đạt tiêu chuẩn “xanh, phát thải thấp” mà còn nâng tầm thương hiệu trên thị trường quốc tế. |
Về kỹ thuật canh tác, ông Hồ Quang Cua – cha đẻ giống lúa ST25 – chia sẻ tại hội thảo “Thúc đẩy sử dụng chế phẩm sinh học trong phòng chống sinh vật gây hại trên lúa theo hướng sản xuất lúa gạo xanh và bền vững” rằng, trên ruộng cấy giống gốc ST25 của ông xuất hiện trùn đất dày đặc, kết quả của nhiều năm bón phân hữu cơ và chế phẩm sinh học. “Đây là sự kỳ diệu của thiên nhiên. Nếu làm hữu cơ đúng cách, trùn có thể xuất hiện hàng tỉ con/ha,” ông Cua cho biết.
Ông Cua giải thích, việc xới đất sau thu hoạch, vùi rơm rạ và tưới chế phẩm sinh học tạo điều kiện phân hủy rơm rạ nhanh, bổ sung chất mùn, giúp cây lúa phát triển rễ khỏe, kháng bệnh tốt và giảm nguy cơ ngộ độc hữu cơ. Phương pháp này vừa tiết kiệm chi phí, vừa tăng chất lượng đất, tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh vật có lợi phát triển. Nhờ áp dụng phương pháp này liên tục, gạo ST25 không chỉ giữ được chất lượng cao mà còn có mùi thơm bền, giúp giống lúa này giành giải Nhất cuộc thi Gạo ngon nhất thế giới năm 2025 ngay cả trong vụ hè thu. Hiện mô hình trồng lúa ST25 của ông đã mở rộng hơn 2.000ha và đang tiếp tục tăng thêm, cho thấy tiềm năng áp dụng đại trà trong tương lai.
GS. Nguyễn Thơ (Hội Khoa học kỹ thuật Bảo vệ thực vật Việt Nam) bổ sung, chế phẩm sinh học tác động trực tiếp đến cây trồng và môi trường, giúp cây lúa khỏe mạnh, hạn chế sâu bệnh nếu được sử dụng đúng cách. “Sản phẩm gạo ST25 trồng vụ hè thu đạt chất lượng tốt nhờ áp dụng chế phẩm sinh học hiệu quả, giúp gạo trắng, thơm, nấu hôm trước hôm sau vẫn không có mùi thiu,” GS. Thơ chia sẻ. Ông cũng nhấn mạnh, kết hợp chế phẩm sinh học với quy trình canh tác bền vững là chìa khóa mở rộng sản xuất gạo xanh, phát thải thấp ở Việt Nam.
Để doanh nghiệp sử dụng nhãn “Gạo Việt xanh, phát thải thấp”, hồ sơ đăng ký cần đầy đủ: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy chứng nhận thành lập hợp tác xã; báo cáo kết quả sản xuất sau thu hoạch được xác nhận bởi chính quyền địa phương hoặc tổ chức quốc tế nếu tham gia dự án quốc tế; cam kết tuân thủ đúng quy trình canh tác. Lượng phát thải khí nhà kính từ sản xuất lúa sẽ được kiểm định độc lập, đảm bảo minh bạch và đáng tin cậy.
Với sự phối hợp đồng bộ giữa nông dân, doanh nghiệp và chính quyền, cùng việc áp dụng kỹ thuật sinh học và công nghệ hiện đại, gạo Việt không chỉ đạt tiêu chuẩn “xanh, phát thải thấp” mà còn nâng tầm thương hiệu trên thị trường quốc tế. Điều này giúp ngành lúa gạo Việt Nam vừa tăng giá trị kinh tế, vừa thực hiện cam kết giảm phát thải ròng, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, thân thiện môi trường và đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu.












