Rau bô binh - Loại cây cỏ dại mọc hoang giàu chất chống oxy hóa Cỏ sữa lá to: Vị thuốc quý từ lá đến rễ Cây thù lù - Dược liệu giàu Vitamin C |
Đặc điểm của cây quế
Quế có tên khoa học là Cinnamomum loureirii Nees, họ long não (Lauraceae). Loại cây này còn có nhiều cái tên khác nhau như nhục quế, quế thanh, quế đơn, quế bì, liễu quế,...
Quế thuộc loại cây thân gỗ lớn, có độ cao từ 10 đến 20 mét và có thể sống đến hàng trăm năm, lớp vỏ ở thân nhẵn, màu nâu nhạt.
Lá mọc so le, dày cứng và dai, hình mác, dài 12 – 25cm, rộng 4-8cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên nhẵn, màu lục sẫm bóng, mặt dưới màu xám tro, hơi có lông lúc còn non, gân 3, hình cung, nổi rõ ở mặt dưới, gân bên kéo dài đến đầu lá, gân phụ nhiều, song song, cuống lá to, dài 1,5-2cm, có rãnh ở mặt trên.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần đầu cành thành chùy dài 7-15cm, bao hoa gồm 6 phiến gần bằng nhau, màu trăng, dài 3mm, mặt ngoài có lông nhỏ.
Quả hạch, hình trứng hoặc hình bầu dục, có cạnh dài 1,2 – 1,3cm, nằm trong đài tồn tại nguyên hoặc chia thùy. Vỏ và lá vò ra có mùi thơm.
Cây ra hoa vào tháng 4 đến tháng 7, có quả vào tháng 10 đến tháng 12.
Quế sau khi thu hoạch thì được ngâm trong vòng 1 ngày sau đó vớt ra để khô nước rồi mới đến công đoạn ủ quế. Tùy vào thời tiết nên thời gian ủ sẽ khác nhau, thông thường thời gian ủ quế sẽ kéo dài trong 3 ngày đối với mùa nóng và mùa lạnh thì thời gian ủ lên tới 7 ngày. Sau khi kết thúc quá trình ủ, quế được để ở chỗ mát mẻ cho đến khi khô.
Cinnamomum Blume là một chi lớn gồm khoảng 270 loài, hầu hết là cây gỗ, phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới châu Á. Ở Ấn Độ có 20 loài, Trung Quốc 12 loài và Việt Nam 40 loài. Ở Việt Nam, nhiều loài mang tên quế, trong đó, có 3 loài là cây trồng, còn lại là mọc hoang dại.
Quế có nguồn gốc ở Việt Nam, cách đây khoảng hơn 2000 năm, các triều đại phong kiến đã coi “quế Giao Chỉ” (Giao Chỉ là tên nước Việt cổ) như là sản vật quý để trao đổi và triều cống (Lê Trần Đức, 1990). Nhiều vùng quế đã được hình thành từ lâu đời ở Yên Bái, Quảng Ninh, Thanh Hoá (Thường Xuân), Quảng Nam (Trà My, Phước Sơn) và Quảng Ngãi (Trà Bồng)…
Đặc điểm của loại cây này là thích ánh sáng, chịu bóng, dễ thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nhiệt độ trung bình năm cho cây sinh trưởng phát triển mạnh là 22 – 23°C. Nó sinh trưởng được trên đất ẩm, mụn và tơi xốp. Nhờ có bộ rễ dài có thể đâm sâu xuống đất, vì thế mà khi có gió bão cây sẽ không bị lật đổ.
Cây ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm cho cây sinh trưởng phát triển mạnh là 22 – 23°C, độ ẩm không khí trung bình khoảng 80%, lượng mưa hàng năm khoảng 1.600 mm hoặc hơn.
Cây quế có mùi thơm và hương vị độc đáo, được trồng chủ yếu làm gia vị, đặc biệt là bột quế, góp phần làm tăng thêm mùi hương của món ăn. Ngoài ra, loại cây này còn được xem bài thuốc quý có thể chữa trị nhiều loại bệnh khác nhau.
Thành phần hóa học
Theo các nghiên cứu, tinh dầu trong loại cây này chủ yếu là aldehyd cinnamic. Vỏ của nó chứa β-sitosterol, acid syringic, cholin, acid protocatechuic, acid vanilic,... Bên cạnh đó, các nhà khoa học còn phát hiện ra loại cây này có chứa nhiều diterpen, rất tốt cho sức khỏe có tên là cinnacassiol. Ngoài ra, nhiều dẫn chất của flavonol cùng với các mùi thơm khác cũng được phát hiện trong loại cây này.
Theo y học cổ truyền
Từng bộ phận cây quế có tác dụng làm thuốc khác nhau.
Thành phẩm vỏ quế được phân thành 4 loại. Phần vỏ thân có khoảng cách từ mặt đất đến tầm 1,2m được xem là loại quế có chất lượng nhất hay còn gọi là quế thượng châu. Phần vỏ quế được bóc tách từ những cành cây quế to thì được gọi là thượng biểu, còn phần vỏ được tách ra hoặc các mẩu quế được chặt ra từ những cành nhỏ, non thì gọi là quế chi.
Quế chi có vị cay, tính nóng và nhẹ, có độc nhẹ, khí nổi lên mà đưa lên, là dương dược, vào hai kinh tỳ và bàng quang, chữa chứng đau trong bụng, giải được chứng lạnh ngoài bì phu, điều hòa vinh vệ, cơ biểu, trị tê tay tê chân, giải tán phong hàn, không có mồ hôi làm cho ra mồ hôi, đã có mồ hôi làm cho cầm mồ hôi.
Quế tâm (gọt bỏ hết bì thô dày, lấy phần bên trong màu tía, rất ngọt): Vị ngọt tính âm, là thuốc âm trong dương dược, công dụng bổ vào tâm huyết, chữa chứng huyết sung lên, đau bụng hậu sản, ngăn được chứng thổ ra máu, mửa ra máu, thông kinh hành huyết…, trị sinh xong khí huyết không tan, tích tụ lại thành hòn khối ở thượng vị, cảm hàn nhiệt, tay chân gầy ốm.
Nhục quế là bộ phận vỏ thân của cây quế khi được tách ra. Nhục quý có mùi vị ngọt mà cay, đã bổ được mệnh môn lại hay chạy lên trên, suốt tới ngoài phần biểu, cứu vãn phần dương trong dương, lại là thuốc của phần vinh vệ khí huyết hậu thiên.
Theo y học hiện đại
Trong tây y, quế và tinh dầu quế được coi là một vị thuốc có tác dụng kích thích tuần hoàn máu (huyết được lưu thông), hô hấp cũng mạnh lên. Quế còn gây co mạch. Bài tiết cũng được tăng lên. Nó còn gây co bóp tử cung và tăng nhu động ruột. Tinh dầu có chất sát trùng mạnh.
Bài thuốc từ cây quế
Trị đau bụng tiêu chảy do tỳ thận dương hư
Nhục quế 3g, mộc hương 3g, can khương 5g, nhục đậu khấu, chế phụ tử đều 9g, đinh hương 3g, phục linh 9g, chế thành hoàn mỗi lần uống 8g, ngày 2 - 3 lần với nước ấm.
Trị viêm thận mạn, phù thũng do dương khí hư chân tay lạnh, tiểu ít chân phù
Can địa hoàng 15g, sơn dược 12g, sơn thù 6g, phục linh, đơn bì, trạch tả đều 12g, nhục quế 4g, phụ tử 10g, xuyên ngưu tất 12g, xa tiền tử 15g, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 15g, ngày uống 2 - 3 lần.
Trị các chứng hư yếu, mệt mỏi, choáng váng, khó ngủ, ăn kém
Thập toàn đại bổ là một cổ phương hợp thành bởi hai bài Tứ quân và Tứ vật, gia thêm hai vị hoàng kỳ và nhục quế, lại có tác dụng đại bổ cả khí lẫn huyết nên được gọi là thập toàn.
Nhân sâm 8g, xuyên khung 8g, phục linh 8g, đương quy 12g, bạch truật 12g, thục địa 20g, cam thảo 4g, bạch thược 12g, hoàng kỳ 12g, nhục quế 4g, gừng sống 3 lát, đại táo 3 quả. Sắc uống lúc thuốc còn nóng.
Chữa các chứng viêm khớp mạn tính, các chứng đau nhức tay chân, co duỗi khó khăn, do can-thận hư tổn, phong hàn thấp xâm nhiễm.
Độc hoạt 12g, tang ký sinh 12g, thục địa 16g, tần giao 12g, đỗ trọng 12g, nhân sâm 8g, phòng phong 12g, ngưu tất 8g, phục linh 8g, cam thảo 6g, nhục quế 4g, bạch thược 12g, tế tân 4g, xuyên khung 8g, đương quy 12g, gừng sống 3 lát, đại táo 3 quả. Sắc uống lúc thuốc còn nóng.
Bài thuốc trị đau ngực
Bài thuốc này có tác dụng hành khí hoạt huyết ôn dương, có thể dùng để điều trị các chứng đau thắt ngực ổn định và một số triệu chứng suy tim. Dùng nghệ khô 40g, nhục quế 12g, tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 4g với nước ấm. Uống trước khi đi ngủ hoặc khi có triệu chứng đau.
Trị cảm mạo
Quế chi 8g, cam thảo 6g, đại táo 3 quả, sinh khương 6g, thược dược 6g. Sắc uống lúc thuốc còn nóng.
Lưu ý khi sử dụng cây quế
Quế có rất nhiều công dụng khác nhau trong việc chữa bệnh và đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Tuy nhiên, bạn cần phải sử dụng đúng liều lượng và tránh lạm dụng để không xảy ra tác dụng phụ không mong muốn.
Phụ nữ đang có bầu, âm hư, dương thịnh, hỏa vượng, đang trong chu kì kinh nguyệt ra nhiều không nên sử dụng.
Người đang có các bệnh lý về gan.
Không dùng trong các trường hợp đang bị sốt cao.
Bên cạnh đó, khi sử dụng quế chi sẽ kèm theo một số tác dụng phụ đối với một số người như: miệng, lưỡi và nướu bị viêm nhiễm, cảm giác khó thở, cơ thể bị dị ứng, nóng trong người, nhịp tim tăng đột ngột. Vì vậy, nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu phản ứng nào sau khi sử dụng loại cây này, hãy ngưng sử dụng và tìm kiếm lời khuyên từ chuyên gia y tế.
Thài lài trắng - Dược liệu kháng viêm hiệu quả |
Cây móng tay, dược liệu tuyệt vời cho bệnh ngoài da |
Cây cỏ luồng - Thảo dược mọc hoang nơi vách đá chữa bệnh ngoài da |