Xuất khẩu hàng dệt may đạt nhiều khởi sắc Ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 44 tỷ USD trong năm 2024 Từ khóa được nhắc tới nhiều nhất của ngành dệt may trong năm 2023 là "khó khăn" |
7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
Trong tháng 1, có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. |
Theo thông tin từ Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 1 ước đạt 33,57 tỷ USD, tăng 6,7% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 1/2024 tăng tới 42%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 62,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 35,6%. Đây cũng là tháng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất kể từ tháng 9/2022.
Trong tháng 1, có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 65,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ; hàng dệt và may mặc; giầy dép các loại; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; Điện thoại các loại và linh kiện; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác; Phương tiện vận tải và phụ tùng.
Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu tăng trưởng mạnh, đồng đều cả ở nhóm nông lâm thủy sản (tăng tới 98,6%) và nhóm công nghiệp chế biến (tăng 38,4%).
Đối với xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến trong tháng 1 chiếm gần 85% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, ước đạt 28,52 tỷ USD, tăng 7,4% so với tháng trước. Đà tăng trưởng này có sự đóng góp lớn của mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện (kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng đầu tiên của năm 2024 ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng 56,3% so với tháng trước do Samsung mới cho ra mắt dòng sản phẩm mới Samsung Galaxy S24 vào giữa tháng 1).
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của gỗ và sản phẩm gỗ cũng tăng 4,6% so với tháng trước, ước đạt 1,4 tỷ USD. Tương tự, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 10,8%, ước đạt 1,3 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 8,1%, ước đạt 900 triệu USD. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực thuộc nhóm công nghiệp chế biến đạt mức tăng trưởng cao, thậm chí tăng hai đến ba con số như: hàng dệt may tăng 28,6%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 74,6%; giầy dép các loại tăng 35%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 57,4%... Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng trong tháng 1 có phần chững lại hoặc giảm so với tháng trước như: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 12,1%, ước đạt 5 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng giảm 0,7%, ước đạt 3,8 tỷ USD; hàng dệt may giữ nguyên ở mức 2,9 tỷ USD; giày dép giảm 0,4%, ước đạt 1,85 tỷ USD…
Nhóm hàng nông, thuỷ sản vẫn tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu của cả nước với kim ngạch ước đạt 3,33 tỷ USD, tăng 9,1% so với tháng trước và chiếm 9,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong đó, sắn và sản phẩm sắn tăng tới 93,4%, ước đạt 274 triệu USD; tiếp đến là rau quả tăng 24,9%, ước đạt 510 triệu USD; hạt điều và chè tăng trên 10%; cà phê, gạo, hạt tiêu tăng nhẹ từ 2 - 3,5% so với tháng trước.
Nguyên nhân chủ yếu là do lợi thế về giá các mặt hàng nông sản trong tháng 01/2024 khi giá tiếp tục tăng, trong khi giá của các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến vẫn trong xu hướng giảm (giá cà phê tăng tới 35,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt bình quân 2.955 USD/tấn; giá gạo tăng 33,5%, đạt bình quân 693 USD/tấn; giá hạt tiêu tăng 14,8%, đạt 3.953 USD/tấn; giá cao su tăng 3,7%...; trong khi giá xuất khẩu phân bón giảm 13,6%, giá chất dẻo giảm 11,7%; giá xơ, sợi dệt các loại giảm 11,7%...).
Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 279 triệu USD trong tháng đầu tiên của năm 2024, giảm mạnh 40% so với tháng trước. Các mặt hàng chủ lực trong nhóm này như dầu thô, xăng dầu giảm lần lượt là 12,2% và 51,9%.
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: Nhìn chung, xuất khẩu hàng hóa tới các thị trường xuất khẩu lớn đều phục hồi tốt trong tháng đầu năm 2024. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong tháng 01/2024 với kim ngạch ước đạt 9,6 tỷ USD, tăng 5,5% so với tháng 12/2023 và tăng tới 55,8% so với cùng kỳ năm 2023. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu tới các thị trường chính khác ước tính cũng tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái như: Trung Quốc tăng 57,8%, ước đạt 6,1 tỷ USD; EU tăng 17,9%, ước đạt 3,9 tỷ USD; ASEAN tăng 38,5%, ước đạt 3,04 tỷ USD; Nhật Bản ước tăng 39,6%; Hàn Quốc ước tăng 22,4%; EU ước tăng 18%...
Xuất của ngành dệt may tháng 1/2024 khá khả quan
Dệt may cũng đứng vào top 4 ngành hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, đạt mức tăng trưởng 28,6% so với cùng kỳ năm trước. |
Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, chỉ số sản xuất của ngành dệt may tháng 1/2024 khá khả quan, trong đó dệt tăng 46,2%; sản xuất trang phục tăng 20,9%. Sản phẩm vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 57%; quần áo mặc thường tăng 25,8%...
Tương ứng với đó, dệt may cũng đứng vào top 4 ngành hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, đạt mức tăng trưởng 28,6% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả khả quan như trên được nhận định là nhờ sự phục hồi của các doanh nghiệp từ cuối năm 2023, khi đơn hàng dần tăng trở lại nhờ nhu cầu may mặc dịp lễ, Tết.
Điển hình như Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, hiện doanh nghiệp đã ký được những đơn hàng mới cho 6 tháng đầu năm 2024. Theo đó, TNG cũng đã lên kế hoạch doanh thu năm 2024 tăng từ 5 - 10% so với năm 2023.
Hay với Tổng Công ty May 10 - CTCP, do giữ được uy tín với các nhà nhập khẩu, đơn hàng của doanh nghiệp tuy chưa dồi dào, nhưng không còn quá khó khăn như năm vừa qua. Năm 2024, May 10 đặt mục tiêu doanh thu đạt 4.500 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 130 tỷ đồng, thu nhập bình quân 9,5 triệu đồng/người/tháng.
Năm 2024, theo phân tích từ lãnh đạo Tập đoàn Dệt may Việt Nam có những chỉ dấu sáng cho ngành dệt may hồi phục trở lại, nhất là tại những thị trường xuất khẩu truyền thống và lớn của ngành. Trong đó, Mỹ với tín hiệu có thể có 3 đợt cắt giảm lãi suất lên tới 0,75% là động lực thúc đẩy tiêu dùng trở lại.
Bên cạnh đó, các quốc gia cạnh tranh gặp nhiều vấn đề về lao động, xung đột vũ trang ở trong nước, trong khi Việt Nam là một điểm đến an toàn cũng là một động lực mới cho đơn hàng có khả năng quay lại Việt Nam tốt hơn. Kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục ổn định, dự báo tăng trưởng GDP cao hơn 2023.
Dù vậy, bài học kinh nghiệm từ năm 2023 cho thấy thị trường thế giới hiện nay biến động rất khó lường, do vậy việc chuẩn bị tâm thế vững vàng, nội lực đủ mạnh để chớp nhanh cơ hội, đồng thời nâng cao sức chống chịu là khuyến cáo chung được nhiều chuyên gia đưa ra.
Bản thân doanh nghiệp dệt may trong nước trên cơ sở “sức khoẻ” thực tế đều có định hướng và giải pháp ứng phó.
Với May 10, ông Thân Đức Việt - Tổng Giám đốc May 10 cho biết, doanh nghiệp sẽ tập trung và chủ động tìm kiếm, khai thác thị trường trong nước và quốc tế, lo đủ việc làm cho người lao động trong chiến lược đa dạng hóa thị trường, mặt hàng, khách hàng.
Bên cạnh đó, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy theo hướng tinh gọn và hợp lý; tập trung công tác phục vụ cho sản xuất, nghiên cứu và chuyển đổi sản phẩm, nghiên cứu sản phẩm mới, chất liệu mới, đẩy nhanh tốc độ may mẫu, dập mẫu, chất lượng mẫu... để làm các đơn hàng khó, kết cấu sản phẩm phức tạp, thời gian giao hàng nhanh...
Với May Hưng Yên, ông Nguyễn Xuân Dương - Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty May Hưng Yên – CTCP cho hay, doanh nghiệp sẽ tiếp tục đầu tư thiết bị theo chiều sâu, sử dụng thiết bị tự động hóa, số hóa nhiều để sản xuất hàng trị giá cao, đồng thời tập trung tăng năng suất lao động.
Nhấn mạnh vào tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA), ông Đặng Vũ Hùng - Thành viên HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam nhận định, với 16 FTA đã có hiệu lực hàng hóa Việt Nam có cơ hội tiếp cận một thị trường rộng lớn. Khi các hiệp định vào cuộc thì vai trò chuỗi cung ứng rất quan trọng. Khách hàng sẽ tìm tới những nhà cung ứng có khả năng cung cấp trọn gói sản phẩm dệt may. Hiện nay, thị trường đang ấm dần, nhiều tập đoàn bán lẻ trong khối thành viên FTA như Canada, Úc, châu Âu… đã tìm đến Việt Nam để kiếm chuỗi cung ứng có giá thành cạnh tranh.
Trên cơ sở đó, Tập đoàn Dệt may Việt Nam tiếp tục tiến hành liên kết doanh nghiệp sản xuất sợi, dệt, vải để hoàn thiện chuỗi cung ứng. Riêng mảng dệt kim, tập đoàn xây dựng chuỗi cung ứng cụ thể, đi vào cụ thể hóa từng dòng sản phẩm, từng thị trường mục tiêu, đa dạng hóa mặt hàng, xây dựng giải pháp phát triển phù hợp và phát huy được năng lực của đội ngũ cho từng thị trường, hoạch định.
Đại diện cho doanh nghiệp ngành sợi, ông Trần Hữu Phong - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vinatex Phú Hưng thông tin, môi trường dệt may trở nên rất nhạy cảm và linh hoạt với bất kỳ thay đổi nào đến từ các yếu tố của nền kinh tế, chính trị thế giới. Do vậy, quan điểm quản trị và điều hành các công ty sợi hiện nay cũng phải thay đổi để phù hợp với xu thế mới. Thay vì quản trị nhà máy - yếu tố đem lại hiệu quả cho ngành thì trong bối cảnh hiện nay việc tập trung thu mua nguyên liệu (chiếm 70-80% giá thành sản phẩm) cũng hết sức quan trọng và cần thiết quyết định hiệu quả của ngành sợi trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Lãnh đạo Vinatex Phú Hưng thông tin thêm, sợi đã bắt đầu có đơn hàng mới, hy vọng doanh nghiệp giảm lỗ và có lãi từ quý II, III/2024. “Tâm thế của chúng ta hiện không phải là đối phó khó khăn mà là nắm thời cơ, chớp cơ hội để có hiệu quả cao nhất. Chuẩn bị điều kiện thiết bị, năng lực quản trị, sản xuất với năng suất, chất lượng cao nhất. Tiếp tục tiết kiệm và đảm bảo chi phí sản xuất tốt, có hiệu quả sớm nhất”, ông Trần Hữu Phong nhấn mạnh.