Báo cáo “Sản xuất và xuất khẩu viên nén của Việt Nam: Thực trạng và một số khía cạnh cần quan tâm” do Tổ chức Forest Trends phối hợp với Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam vừa công bố cho hay, trong những năm gần đây, lượng viên nén xuất khẩu mỗi năm đạt trên dưới 3 triệu tấn, tương đương 350 triệu USD về kim ngạch.
Hiện nay, xuất khẩu viên nén nhiên liệu của Việt Nam chủ yếu sang 2 thị trường lớn là Hàn Quốc và Nhật Bản. Lượng viên nén xuất khẩu sang 2 thị trường này chiếm hơn 90% trong tổng lượng xuất khẩu. Tại 2 thị trường này, thì thị trường Nhật Bản lại duy trì được mức độ ổn định tốt hơn so với thị trường Hàn Quốc, tuy nhiên, thị trường Hàn Quốc lại có quy mô lớn hơn so với thị trường Nhật Bản.
Xuất khẩu viên nén nhiên liệu chịu ảnh hưởng nặng nề do Covid-19 |
Thị trường Nhật bản hiện có mức giá nhập khẩu viên nén cao hơn thị trường Hàn Quốc, bình quân khoảng 20 – 30 USD/tấn. Được biết, hiện nay mức giá xuất khẩu viên nén vào thị trường Hàn Quốc rất thấp, do nước này thực hiện cơ chế đấu giá khi mua sản phẩm, với các doanh nghiệp chào mức giá thấp nhận được các hợp đồng cung sản phẩm. Sau khi nhận được các hợp đồng này, các doanh nghiệp này quay trở lại các nhà sản xuất tại Việt Nam và đẩy mức giá sản phẩm xuống thấp, nhằm đáp ứng các hợp đồng mà họ đã ký kết với người mua.
Đối với thị trường Nhật Bản, việc thu mua không tuân theo hình thức đấu giá như thị trường Hà Quốc mà phụ thuộc trực tiếp vào thỏa thận giữa người mua và người bán. Chính nhờ vậy nên mức giá k bị đẩy xuống thấp như tại thị trường Hàn Quốc.
Do chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19, việc sản xuất và xuất khẩu viên nén nhiên liệu của Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh trong những tháng gần đây. Trong tháng 6/2021, xuất khẩu viên nén đạt hơn 367 nghìn tấn với giá trị 41,1 triệu USD, tuy nhiên, bước sang tháng 7/2021, xuất khẩu viên nén sụt giảm xuống còn 315,5 nghìn tấn, trị giá 36,7 triệu USD, tháng 8/2021 kim ngạch xuất khẩu đạt 265,2 nghìn tấn với giá trị 31,3 triệu USD.
Bình quân mỗi năm có trên 70 doanh nghiệp tham gia vào khâu sản xuất và xuất khẩu viên nén nhiên liệu (giai đoạn 2019 – 2021). Tuy nhiên, trong 8 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp tham gia khâu sản xuất và xuất khẩu này chỉ là 59. Sự suy giảm các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong 8 tháng đầu 2021 có thể là do một số doanh nghiệp sẽ tham gia khâu này vào những tháng cuối năm, cũng có thể là do tác động của sự bùng phát trở lại của dịch Covid-19 tại Việt Nam.
Một trong những điểm mạnh lớn nhất của ngành viên nén nhiên liệu là nguồn nguyên liệu đầu vào dồi dào như mùn cưa, dăm bào, cành đầu mẩu, cành ngọn gỗ rừng có đường kích từ khoảng 2cm trở xuống những nguyên liệu này đa phần là gỗ phụ phẩm của ngành chế biến gỗ. Bên cạnh đó, viên nén không đòi hỏi sự đầu tư về công nghệ quản lý lớn và phức tạp, điều này tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tham gia vào khâu sản xuất. Đặc biệt, Việt Nam lại có lợi thế rất lớn về nguồn nguyên liệu cho sản xuất viên nén nhiên liệu lại nằm rất gần các cảng biển, thuận lợi cho việc vận chuyển.
Tuy nhiên ngành sản xuất và xuất khẩu viên nén nhiên liệu Việt Nam đang có những mặt hạn chế nhất định. Đầu tiên là về nguyên liệu đầu vào khi việc kiểm soát chặt chẽ về khóa cạnh chất lượng và pháp lý. Nguồn cung gỗ nguyên liệu đầu vào có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) hạn chế, trong khi đòi hỏi của thị trường xuất khẩu về mặt hàng có chứng chỉ ngày càng tăng. Đó là một tín hiệu cảnh báo, cho thấy gian lận trong việc khai báo sản phẩm rừng có chứng chỉ FSC. Những thông tin này đang tác động xấu tới ngành sản xuất và xuất khẩu viên nén nhiên liệu.
Bên cạnh đó, việc nguồn cung lớn hơn cầu đang là vấn đề lớn của ngành viên nén, khi các doanh nghiệp tham gia khâu chế biến đông đảo. Điều này dần đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp đặc biệt là về giá.
Hiện dư địa của ngành viên nén nhiên liệu còn rất lớn để phát triển. Cùng với đó, nhu cầu tiêu thụ viên nén tại thị trường Nhật Bản lại tiếp tục tăng trong tương lai. Nếu năng lực sản xuất của Việt Nam giữ nguyên như hiện tại thì cung – cầu mặt hàng này sẽ dần được cân bằng trong 2 – 3 năm tới. Mặt khác, ngành hàng này có tiềm năng trong việc nâng cao tỷ trọng sản phẩm có chứng chỉ FSC, điều này có thể đạt được thông qua hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu với các hộ trồng rừng để tạo nguồn gỗ chứng chỉ.
Giá xuất khẩu bình quân trên 1 đơn vị sản phẩm vào Nhật Bản luôn cao hơn giá xuất khẩu vào Hàn Quốc. Điều này có thể làm các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ dịch chuyển từ thị trường Hàn Quốc sang thị trường Nhật, hoặc ít nhất cũng cố gắng để tham gia cả 2 thị trường.
Để nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, việc hình thành một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp Việt Nam ngành viên nén nhiên liệu là điểu cần thiết bởi điều này sẽ trực tiếp góp phần vào việc điều tiết các hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành này trong tương lai.