![]() |
| Niềm vui mùa vàng. Ảnh: Trương Xuân Thắng |
Tạo động lực từ vốn vay ưu đãi
Bắc Ninh xác định giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, gắn chặt với mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Để đạt được điều đó, tỉnh đã chuyển trọng tâm từ hỗ trợ an sinh sang xây dựng sinh kế, ưu tiên chính sách vốn vay ưu đãi nhằm trao “cần câu hơn con cá” cho người dân nghèo.
Ngân hàng Chính sách Xã hội (CSXH) tại Bắc Ninh tiếp tục là đầu mối quan trọng cung cấp vốn ưu đãi cho các hộ nghèo, cận nghèo. Nguồn vốn này được phân bổ cho nhiều mục tiêu như sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, kinh doanh nhỏ lẻ, giải quyết việc làm. Đồng thời, tỉnh bố trí ngân sách đối ứng và áp dụng cơ chế tái quay vòng vốn, giúp tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân.
Ví dụ điển hình tại xã Nhã Nam: nhiều hộ như gia đình chị Nguyễn Thị Ngà vay 100 triệu đồng để nuôi trâu, bò sinh sản. Sau vài năm chăm sóc, đàn vật nuôi sinh sôi, mang lại nguồn thu ổn định, giúp gia đình chị không chỉ trả được nợ mà có thêm vốn tái đầu tư. Hộ ông Nguyễn Đăng Hưng vay vốn để trồng vải thiều sớm kết hợp nuôi gia súc, tạo ra nguồn thu cao hơn và bền vững hơn.
Theo báo cáo của Phòng Giao dịch CSXH Tân Yên, đến cuối tháng 10/2025, dư nợ ưu đãi tại xã Nhã Nam đạt hơn 123,8 tỷ đồng, phục vụ khoảng 1.650 hộ. Việc giải ngân kịp thời và linh hoạt giúp nhiều hộ dễ tiếp cận vốn, giảm rủi ro vay và tăng khả năng phát triển sản xuất.
![]() |
| Cán bộ Agribank chi nhánh Bắc Ninh giới thiệu dịch vụ thanh toán điện tử tại trang trại sản xuất nông sản sạch theo hướng công nghệ cao tại thôn Nhất Trai, xã Trung Chính. |
Điều đáng chú ý là không chỉ dừng lại ở việc cấp vốn, nhiều người dân sau khi vay vốn đã học cách quản lý dòng tiền, tính toán chi phí, tiết kiệm — những kỹ năng tài chính nền tảng để vươn lên bền vững.
Trang bị kỹ năng nghề nghiệp
Song song với vốn, Bắc Ninh đã và đang tập trung mạnh vào đào tạo nghề nghiệp như một giải pháp căn cơ để giảm nghèo bền vững. Tỉnh triển khai các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, người thuộc hộ nghèo, nhằm giúp họ tiếp cận các công việc tại doanh nghiệp công nghiệp hoặc ngành dịch vụ có chất lượng cao.
Dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp và việc làm bền vững cho lao động khó khăn được tỉnh ưu tiên. Các khóa đào tạo nghề ngắn hạn được thiết kế sát nhu cầu của doanh nghiệp trong khu công nghiệp, như điện tử, cơ khí hoặc may mặc, giúp học viên sau khi hoàn thành có thể làm việc ngay tại địa phương.
Kết quả rất đáng ghi nhận, đã có gần 10.000 lao động nghèo và cận nghèo được kết nối việc làm tại doanh nghiệp sau đào tạo. Ngoài việc có thu nhập ổn định, họ còn được đảm bảo các quyền lợi cơ bản như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
![]() |
| Gần 10.000 lao động nghèo và cận nghèo được kết nối việc làm tại doanh nghiệp sau đào tạo. Ảnh- Việt Hưng |
Không chỉ dừng lại ở nghề ngắn hạn, tỉnh cũng chú trọng nâng cao trình độ giáo dục phổ thông: đầu tư trường học, trang bị kỹ thuật, khuyến khích học sinh ở vùng khó khăn tiếp cận tri thức công nghệ. Ở xã Đại Sơn, vùng có đông đồng bào dân tộc, việc trang bị kiến thức đã tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với STEM — nhiều em đã giành giải trong các cuộc thi sáng tạo, cho thấy tiềm năng lớn trong việc khai thác nguồn lực con người để phát triển kinh tế lâu dài.
Liên kết sản xuất, hợp tác xã: giá trị gia tăng
Chính sách sinh kế tại Bắc Ninh còn khuyến khích mô hình kinh tế tập thể, cụ thể là hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, như một nhân tố chủ lực để nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập cho người dân.
Theo Báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường, tỉnh hết sức coi trọng việc phát triển HTX kiểu mới — hợp tác xã liên doanh, chuỗi liên kết — để đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giảm chi phí đầu vào, và đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Các HTX này không chỉ là nơi xuất phát của sản xuất mà còn là “cầu nối” giữa người nông dân và thị trường.
Một minh chứng điển hình là mô hình dứa VietGAP tại thôn Kép 11 (huyện Lạng Giang cũ). Gia đình chị Tăng Thị Hiền đã tham gia các lớp khuyến nông, áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, thu hoạch dứa trái vụ, và hợp tác với HTX để tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó, thu nhập của gia đình chị đạt vài trăm triệu mỗi năm. Thêm vào đó, mô hình dứa còn gắn với du lịch sinh thái đồi dứa — tạo nguồn thu đa chiều cao hơn sản xuất thuần túy.
Hợp tác xã cũng hỗ trợ kỹ thuật, marketing, bao tiêu sản phẩm, giúp thành viên tự tin sản xuất theo tiêu chuẩn cao, tham gia các chương trình OCOP, và tăng sức cạnh tranh sản phẩm tại thị trường. Cóthể khẳng định, chính sách tỉnh ưu tiên hỗ trợ hình thành HTX rất phù hợp để phát triển sinh kế bền vững.
![]() |
| Lãnh đạo xã Kép thăm mô hình trồng dứa trái vụ cho thu nhập cao tại Hợp tác xã Dứa sạch Hương Sơn. |
Tri thức số phát triển sản xuất và sinh kế
Một bước đột phá quan trọng trong chính sách sinh kế của Bắc Ninh là hỗ trợ người dân tiếp cận công nghệ số và thông tin. Đây không chỉ là hỗ trợ “cơ sở vật chất”, mà là trao quyền cho người dân biết cách dùng “tri thức số” để phát triển sản xuất và sinh kế.
Ở xã Kép, tỉnh đã thành lập 49 tổ công nghệ số cộng đồng với hơn 500 thành viên. Những tổ này trực tiếp vào từng hộ, hướng dẫn cách sử dụng các ứng dụng như định danh điện tử, sổ sức khỏe điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, và dịch vụ công trực tuyến. Việc tiếp cận số giúp người dân nhanh chóng tra cứu thông tin về chính sách, vay vốn, và kết nối thị trường.
Thanh niên xung kích trong xã cũng được huy động để hỗ trợ người lớn tuổi hoặc những hộ khó tiếp cận công nghệ. Họ trực tiếp hướng dẫn bà con cách dùng app điện thoại để thanh toán điện, nước, học phí; điều này giúp tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả trong các giao dịch hàng ngày.
Thông qua kỹ năng số, người dân còn tìm được các cơ hội kinh doanh mới: bán nông sản lên sàn thương mại điện tử, tiếp thị sản phẩm OCOP, quảng bá du lịch homestay hay dải du lịch trải nghiệm. Cách tiếp cận này không chỉ nâng cao thu nhập mà còn giúp họ xây dựng mô hình kinh tế hiện đại, có khả năng thích ứng cao với biến động thị trường.
![]() |
| Hỗ trợ người dân tiếp cận công nghệ số và thông tin. Ảnh: Mộc Sa |
Những nỗ lực vốn, đào tạo nghề, hợp tác xã, công nghệ số đã tạo nên hiệu quả thiết thực trong giảm nghèo bền vững tại Bắc Ninh. Minh chứng là năm 2021, tỉnh Bắc Ninh (trước hợp nhất) có 28.484 hộ nghèo, chiếm 3,47% dân số. Đến cuối năm 2024, con số hộ nghèo giảm xuống còn 8.308 hộ, tương đương khoảng 0,97%.
Với quyết tâm chính trị cao, tỉnh Bắc Ninh đã bố trí ngân sách 139 tỷ đồng cho chương trình giảm nghèo bền vững (theo Nghị quyết 36/NQ‑HĐND), hỗ trợ 7 nhóm dự án trọng tâm gồm cơ sở hạ tầng, đa dạng sinh kế, đào tạo nghề, thông tin, giám sát.
Đối với các xã đặc thù, đồng bào dân tộc hoặc vùng khó khăn, như huyện Sơn Động (cũ), tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh: từ 25,80% năm 2021 xuống còn 10,26% năm 2024.
Những con số này không chỉ thể hiện nỗ lực giảm nghèo mà còn phản ánh chiến lược phát triển bao trùm, giúp người dân vùng khó tiếp cận kiến thức, vốn và cơ hội sản xuất hiện đại.
Nội lực và khát vọng vươn lên
Điều đáng quý nhất trong hành trình giảm nghèo tại Bắc Ninh chính là tinh thần tự lực của người dân. Nhiều hộ gia đình đã dùng vốn vay không chỉ để “vượt qua ngày trước mắt” mà để xây dựng mô hình kinh tế bền vững, từ chăn nuôi, trồng cây, kinh doanh nhỏ lẻ, đến du lịch cộng đồng.
Rất nhiều cá nhân là minh chứng sống cho việc kết hợp truyền thống làng nghề và sáng tạo kinh tế. Họ không chỉ thoát nghèo mà còn tạo việc làm cho người khác, đóng góp vào sự phát triển chung của cộng đồng.
Việc tiếp cận công nghệ số cũng đã thay đổi cách người dân nghĩ về sinh kế: không chỉ là trồng cây, nuôi con, mà còn là cách tiếp thị sản phẩm lên mạng, tìm khách hàng mới, tự quảng bá du lịch trải nghiệm, sàn TMĐT. Sự tham gia của thanh niên và tổ công nghệ số cộng đồng là động lực lan tỏa tri thức số, giúp nhiều người lớn tuổi hoặc ít tiếp xúc công nghệ bước qua rào cản tiếp cận thông tin.
![]() |
| Điều đáng quý nhất trong hành trình giảm nghèo tại Bắc Ninh chính là tinh thần tự lực của người dân. Ảnh Nụ cười no ấm - Tác giả: Vũ Thị Phương |
Chính sách hỗ trợ sinh kế của Bắc Ninh — vốn ưu đãi, đào tạo nghề và kỹ năng số — đang được hiện thực hóa một cách sâu rộng và hiệu quả. Ba “chìa khóa” này không chỉ giúp người nghèo vượt qua khó khăn trước mắt mà còn trao cho họ khả năng tự lực, xây dựng mô hình kinh tế mang lại thu nhập bền vững.
Nhờ sự đồng lòng của chính quyền, người dân và cộng đồng doanh nghiệp, Bắc Ninh đang dần hiện thực hóa tầm nhìn phát triển bao trùm, tạo cơ hội để mỗi người dân, dù ở vùng khó khăn, đều có thể vươn lên và đóng góp vào tương lai chung của tỉnh. Hành trình này không chỉ là về giảm nghèo, mà còn là việc xây dựng một nền kinh tế nhân bản, bền vững và giàu tri thức.
















