Một số vườn trồng sầu riêng bị lẫn tạp các loài cây khác nên không được cấp mã. |
Được cấp 343 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng
Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp Quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật Việt Nam (SPS Việt Nam) cho biết, sau hai lần kiểm tra trực tuyến vườn trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng tươi của Việt Nam, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đã phê duyệt cho 246 mã số vùng trồng và 97 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc.
Ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam thông tin thêm, vừa qua có 36 mã số vùng trồng và 18 mã cơ sở đóng gói được Tổng cục Hải quan Trung Quốc khuyến cáo cần có giải pháp khắc phục và bổ sung hồ sơ để họ xem xét phê duyệt trong đợt tiếp theo.
Đến nay, Việt Nam đã có 343 vườn trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số vùng trồng sầu riêng. (Ảnh minh họa) |
Theo GACC, 163 vườn trồng và 67 cơ sở đóng gói sầu riêng tươi của Việt Nam phù hợp với yêu cầu của Nghị định thư. Tính tổng cộng sau 2 đợt kiểm tra, GACC đã phê duyệt cho Việt Nam 246 vùng trồng và 97 cơ sở đóng gói sầu riêng đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc.
Được cấp 343 mã số nhưng một số vườn trồng và cơ sở đóng gói tại Việt Nam hiện chưa phù hợp với yêu cầu của Nghị định thư, cần có giải pháp khắc phục để được xem xét phê duyệt trong thời gian tới. Theo đó có 5 lý do chủ yếu khiến nhiều vùng trồng bị GACC từ chối cấp mã.
Nhiều vườn sầu riêng bị từ chối cấp mã với ly do rất sơ đẳng
Cụ thể, theo ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam lưu ý một số lỗi thường gặp của các vườn trồng và cơ sở đóng gói, khiến quá trình cấp mã chưa đạt kỳ vọng. Riêng về vườn trồng, ông Nam liệt kê 5 vấn đề.
Một là, vườn trồng không có chứng chỉ GAP hoặc các hoạt động, hồ sơ ghi chép tại vườn trồng không phù hợp với GAP.
Hai là, điều kiện vệ sinh vườn còn hạn chế, công tác quản lý vệ sinh vườn trồng không được chú trọng như: cành tán không được cắt tỉa, tàn dư thực vật không được dọn, cành lá rủ xuống đất không được cắt tỉa, chăm sóc kịp thời.
Đặc biệt, đa số vườn trồng sầu riêng chưa được GACC phê duyệt hiện thiếu các biện pháp quản lý cỏ dại. Vườn trồng có sự xuất hiện các loại cây tạp và không có biện pháp cách ly hiệu quả đối với các vườn xung quanh.
Bao bì thuốc BVTV, chế phẩm sinh học không được thu gom cũng là nguyên nhân khiến vùng trồng sầu riêng không được cấp mã. (Ảnh minh họa) |
Ba là, không có hồ sơ sổ sách về quản lý, ghi chép và theo dõi các loài sinh vật gây hại tại vườn. Vườn trồng không lắp đặt bẫy ruồi đục quả (sâu đục trái) hoặc lắp đặt nhưng không đảm bảo số lượng bẫy theo quy định.
Trong quá trình GACC kiểm tra trực tuyến, nhận thức của thành viên tham gia phỏng vấn chưa đầy đủ về các loài sinh vật gây hại mà phía Trung Quốc quan tâm. Một trong số đó là các bệnh liên quan đến nấm Phytophthora sp. và đưa ra biện pháp phòng trừ.
“Đa phần các loại bẫy được treo không đúng quy định, hoặc sử dụng các loại bẫy không đúng yêu cầu”, ông Ngô Xuân Nam nói. Ông lấy ví dụ, một số vườn trồng sử dụng miếng dán ruồi để thay cho bẫy dính màu vàng trong giám sát ruồi đục quả. Ngoài ra, các vườn không thay chất dẫn dụ trong bẫy theo định kỳ, hoặc bẫy treo không thuận lợi cho việc kiểm tra.
Bốn là, cơ sở vật chất tại vườn trồng còn thiếu và yếu, như vườn trồng không có nhà kho hoặc nhà kho dột, sắp xếp không ngăn nắp hoặc điều kiện môi trường vệ sinh nhà kho kém. Bên cạnh đó, đa số chưa có kho bảo quản thuốc BVTV, nông cụ hoặc kho dột nát, không đủ kín.
Thực tế nữa các vườn trồng hầu như không có điểm lưu trữ tạm thời sầu riêng ngay sau khi thu hoạch (không phải nơi người ở), hoặc điểm lưu trữ tạm thời không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh, không cách ly hiệu quả với kho lưu trữ thuốc BVTV, hoặc điểm lưu trữ chỉ được quây bằng bạt và không có biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm thứ cấp.
Kho bảo quản nông cụ, thuốc BVTV dột nát, không đủ kín cũng là một điểm trừ khi xét duyệt hồ sơ cấp mã số vùng trồng sầu riêng. (Ảnh minh họa) |
Năm là, hồ sơ, sổ sách về quy trình thu hoạch còn thiếu bổ sung hình ảnh và các tài liệu liên quan đến quá trình thu hoạch sầu riêng. Một số vườn trồng không có hồ sơ tập huấn; không có sổ theo dõi sử dụng thuốc BVTV và không có hồ sơ ghi chép về quản lý sinh vật gây hại.
Ngoài những điểm trên, ông Ngô Xuân Nam lưu ý thêm việc cải thiện hệ thống quản lý truy xuất nguồn gốc, hồ sơ thu hoạch và bán hàng đối với các vườn trồng. Sau khi thu hoạch, sầu riêng cần được che đậy để tránh bị ô nhiễm thứ cấp trong quá trình vận chuyển.
Theo ông Ngô Xuân Nam, sầu riêng là loại cây cho giá trị kinh tế cao. Được cấp thêm mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, sầu riêng Việt Nam chắc chắn sẽ rộng đường hơn khi xuất sang Trung Quốc. Do vậy, chúng ta cần đảm bảo tinh thần hợp tác và tuân thủ chặt chẽ yêu cầu của phía Trung Quốc trong việc quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, giúp người nông dân thu lợi nhuận cao hơn từ loại quả đặc sản này./.