![]() |
| Toàn cảnh Hội nghị “Thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo của các viện, trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường”. |
Thách thức trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ
Chiều 14/11/2025, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị “Thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo của các viện, trường trực thuộc Bộ”, do Bộ trưởng Trần Đức Thắng chủ trì. Hội nghị tập trung đánh giá thực trạng nghiên cứu khoa học, năng lực ứng dụng công nghệ, và kết nối đào tạo với sản xuất, hướng tới triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Theo Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Văn Long, giai đoạn 2021-2025, ngành Nông nghiệp và Môi trường đạt nhiều kết quả nổi bật: 225 giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp được công nhận, tăng 6,6%; 150 tiến bộ kỹ thuật (tăng 1,8%); 158 bằng độc quyền sáng chế/sở hữu trí tuệ/quy trình công nghệ (tăng 34%); công bố 3.665 bài báo quốc tế (tăng 49%) và 6.540 bài báo trong nước (tăng 34%). Ngành đã triển khai hơn 1.000 mô hình sản xuất ứng dụng khoa học công nghệ, đồng thời xây dựng và công bố 193 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và ban hành 1.864 Tiêu chuẩn quốc gia, với 3 QCVN và 82 TCVN dự kiến hoàn thành trong năm 2025.
Kết quả nghiên cứu đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt: nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản giúp tăng hiệu quả từ 10-30%, đồng thời thay đổi thói quen canh tác, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều nhiệm vụ chưa được bố trí kinh phí, hồ sơ đề xuất chưa hoàn thiện và chưa gắn kết với nhu cầu thực tiễn. Một số kết quả nghiên cứu có khả năng ứng dụng nhưng chưa đưa vào sản xuất, còn nằm trong “ngăn kéo”. Ngoài ra, nguồn nhân lực khoa học công nghệ còn thiếu và yếu, đào tạo chưa gắn với thực tế sản xuất, chính sách đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn, thị trường khoa học công nghệ chưa phát triển để tạo động lực cạnh tranh.
Theo số liệu mới nhất, 188 nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao: 57 nhiệm vụ hoàn thành (30,3%), trong đó 41 đúng hạn, 16 quá hạn; 119 nhiệm vụ đang triển khai đúng tiến độ (63,3%), 11 nhiệm vụ bị chậm tiến độ (5,6%). Bộ cũng đã phê duyệt 52 nhiệm vụ theo Nghị quyết 57-NQ/TW và đề xuất bố trí 4.584,9 tỷ đồng cho 28 dự án đầu tư phát triển năng lực 23 đơn vị giai đoạn 2026–2030.
Thách thức về không gian phát triển nông nghiệp cũng được Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh: ngành cần mở rộng các lĩnh vực như nuôi trồng thủy sản công nghiệp trên biển quy mô lớn, công nghệ cao, đồng thời trong lâm nghiệp, vẫn phải bảo vệ rừng nhưng tăng thu nhập cho người sống dựa vào rừng. Bộ trưởng kêu gọi các đơn vị gửi đề xuất thiết bị và đề tài nghiên cứu cấp thiết để đưa vào kế hoạch 2026–2030, có thể triển khai ngay trong năm 2026.
Giải pháp đột phá và mở rộng không gian phát triển
![]() |
| Ngành Nông nghiệp và Môi trường kỳ vọng: thúc đẩy đột phá khoa học công nghệ, mở rộng không gian phát triển nông nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng năng suất, phát triển bền vững và đóng góp thiết thực vào kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số quốc gia. |
Trước thách thức trên, hội nghị đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường đột phá khoa học công nghệ và chuyển giao vào thực tiễn sản xuất. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đưa ra 8 nhóm giải pháp chiến lược: sửa đổi quy định pháp luật, rà soát kế hoạch quốc gia, sắp xếp tổ chức KHCN tinh gọn hiệu quả, thay đổi tư duy đặt hàng nghiên cứu, chuyển đổi số toàn diện, xây dựng cơ chế hợp tác 3 nhà (Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp), chú trọng nhân lực chất lượng cao, và tăng cường hợp tác quốc tế.
Ở cấp học viện, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, nhấn mạnh việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm sáu yếu tố: con người sáng tạo, hạ tầng nghiên cứu – công nghệ, hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và thương mại hóa, chuyển đổi số, cùng cơ chế và văn hóa sáng tạo. Hệ sinh thái này giúp rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thị trường, thúc đẩy doanh nghiệp spin-off, khởi nghiệp sinh viên và thu hút nguồn lực xã hội, nâng cao uy tín nhà trường.
Học viện coi con người là trung tâm, với gần 1.400 cán bộ, trong đó hơn 300 GS, PGS, TS được đào tạo tại các quốc gia tiên tiến. Học viện đầu tư cơ sở vật chất: 6 phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO, hàng ngàn chỉ tiêu phân tích, 80 mô hình thực hành nghiên cứu. Thương mại hóa và chuyển giao công nghệ được thực hiện qua VNUA Tech-Mart, sàn AgroMart cùng mạng lưới 200 doanh nghiệp – hợp tác xã. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu mạnh về dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và nông nghiệp số giúp ứng dụng chuyển đổi số trong quản trị, đào tạo, nghiên cứu, hợp tác quốc tế và hỗ trợ khởi nghiệp.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cũng nhấn mạnh tăng giá trị sản phẩm và năng suất là hai hướng phát triển chủ lực. Ví dụ, nho Nhật có thể đạt gần 100 USD/kg, trong khi nho Việt chỉ khoảng 5 USD/kg; 1 ha lúa đạt 100 triệu đồng/năm nhưng cây trồng chất lượng cao khác có thể đạt 20 tỉ đồng/ha/năm. Trong thủy sản, chuyển từ khai thác sang nuôi biển công nghiệp quy mô lớn; trong lâm nghiệp, cần bảo đảm người sống dựa vào rừng có thu nhập cao hơn. Để hiện thực hóa mục tiêu, các viện, trường được yêu cầu gửi đề xuất thiết bị nghiên cứu trong tháng 11/2025, Bộ sẽ xem xét đưa vào Kế hoạch 2630 từ 2026. N
Ngoài ra, định hướng tương lai tập trung vào trung tâm tri thức, hạt nhân nghiên cứu chiến lược, tạo ra giống cây – con mới, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, quản lý tài nguyên gắn với biến đổi khí hậu, cùng với mô hình “trường trong doanh nghiệp – doanh nghiệp trong trường/viện”. Thông qua các giải pháp trên, ngành Nông nghiệp và Môi trường kỳ vọng: thúc đẩy đột phá khoa học công nghệ, mở rộng không gian phát triển nông nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng năng suất, phát triển bền vững và đóng góp thiết thực vào kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số quốc gia.












