| Gian nan "giữ lửa" nghề tò he |
![]() |
| Tò he đa sắc màu với nhiều hình thù con vật, nhân vật hoạt hình ngộ ngĩnh - |
Nghề tò he đối mặt nhiều thách thức
Làng nghề nặn tò he xã Phượng Dực, TP. Hà Nội, có lịch sử hơn 300 năm, từng là niềm tự hào văn hóa dân gian với những con tò he hình chim, cò, cá hay các con vật truyền thuyết. Nguyên liệu chính là bột gạo nếp và phẩm màu thực phẩm an toàn, kết hợp kỹ thuật nặn tinh xảo. Ngày xưa, tò he vừa để chơi vừa ăn, nay chỉ để chơi và trưng bày nhưng bền và đẹp hơn. Nghề gắn liền với ký ức tuổi thơ của nhiều thế hệ, nhưng cũng trải qua nhiều thăng trầm.
Nghệ nhân Đặng Văn Điền, gắn bó với nghề từ khi 7–8 tuổi, chia sẻ: “Tò he không chỉ mang lại niềm vui cho người xem, mà còn đem đến hạnh phúc và niềm tự hào cho chính tôi. Ngày xưa, tò he vừa chơi vừa ăn được, còn bây giờ chỉ để chơi, để trưng bày, nhưng lại bền và đẹp hơn rất nhiều”. Tuy nhiên, bên cạnh niềm tự hào, nghề phải đối mặt nhiều khó khăn. Thị trường đồ chơi hiện đại phong phú, đồ chơi ngoại nhập tràn vào, thu hút giới trẻ, khiến nghề truyền thống gần như bế tắc. Nghề tò he chỉ đủ nuôi đam mê, chưa thể nuôi sống gia đình. Bán lẻ ngày thường không đủ chi phí, chỉ vào mùa lễ hội hoặc hội chợ mới có thu nhập khá hơn.
Nghệ nhân Đoàn nhớ lại: “Đến năm 2008, 2009, khi việc bán hàng rong bị siết chặt, chúng tôi không còn được bày bán ở cổng trường hay khu vui chơi. Lúc ấy, đồ chơi ngoại nhập tràn vào gây áp lực lớn cho đồ chơi truyền thống, nghề tò he gần như rơi vào bế tắc. Nhiều người phải bỏ nghề, nhưng tôi vẫn cố bám trụ vì nghĩ nếu mình không làm, nghề sẽ mất”.
Ngoài ra, việc truyền nghề cho thế hệ trẻ gặp nhiều thách thức. Nghề thủ công đòi hỏi thời gian học dài, kỹ thuật tỉ mỉ, trong khi giới trẻ ngày nay ít lựa chọn học nghề truyền thống do công nghệ hiện đại chiếm ưu thế. Số hộ làm nghề thường xuyên hiện chỉ còn khoảng 10, còn hơn 40 người chỉ làm theo mùa lễ hội. Lực lượng kế cận mỏng, dẫn tới nguy cơ mai một nếu không có sự hỗ trợ từ chính quyền, cộng đồng, và các tổ chức đào tạo kỹ năng số.
Để nghề tồn tại, các nghệ nhân đề xuất cần có không gian trình diễn, lớp trải nghiệm cho học sinh, chương trình ngoại khóa và sự đồng hành của các nhà khoa học, cộng đồng văn hóa. Đồng thời, nghề cần được quan tâm cả về mặt kinh tế, thiết kế sản phẩm, quảng bá và bảo vệ thương hiệu, giúp các nghệ nhân vừa duy trì truyền thống vừa tạo sinh kế ổn định. Những khó khăn này không chỉ là thách thức kinh tế, mà còn là vấn đề văn hóa – nếu nghề không được truyền lại cho thế hệ trẻ, cả một di sản văn hóa đặc sắc của Thủ đô có nguy cơ mai một. Nghề tò he, dù nhỏ bé, nhưng chứa đựng giá trị tinh thần, sáng tạo dân gian, và là minh chứng sinh động cho trí tuệ, khéo léo của người Việt.
Số hóa mở lối hồi sinh nghề truyền thống
![]() |
| Trẻ em và du khách được hòa mình vào thế giới sắc màu của tò he. Ảnh: Khánh Hòa |
Trước bối cảnh thách thức, các nghệ nhân Phượng Dực đã chủ động chuyển mình bằng cách tận dụng thương mại điện tử và mạng xã hội. Nghệ nhân Đặng Văn Tiên, với gần 30 năm kinh nghiệm, cho biết: “Chúng tôi đưa tò he lên sàn thương mại điện tử, hợp tác với trung tâm thương mại để trưng bày và bán sản phẩm. Nhờ vậy, tò he không còn bó hẹp trong không gian làng quê mà đã đến với khách hàng cả nước, thậm chí ra nước ngoài”.
Các buổi livestream nặn tò he trên TikTok, Facebook thu hút hàng trăm nghìn lượt xem, mang trải nghiệm văn hóa trực tiếp đến Việt kiều và khách quốc tế. Khách hàng nước ngoài không chỉ mua sản phẩm, mà còn tìm hiểu quá trình làm nghề, coi đây là trải nghiệm văn hóa độc đáo. Nguyên liệu cũng được cải tiến: bột nếp kết hợp phụ gia tự nhiên giúp sản phẩm cứng cáp, bền màu, vận chuyển xa mà không hư hỏng. Nhờ đó, tò he có thể xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều thị trường quốc tế khác.
Các nghệ nhân còn liên kết với trường học, tổ chức lớp trải nghiệm cho trẻ mầm non và tiểu học, vừa giúp trẻ em nặn tò he vừa tìm hiểu về văn hóa dân gian và lịch sử làng nghề. Đồng thời, các lớp học ngoại khóa, các điểm trưng bày, trung tâm thương mại hoặc khu du lịch được đề xuất để nghệ nhân biểu diễn, bán sản phẩm và truyền nghề cho thế hệ trẻ. Những chương trình này không chỉ giáo dục văn hóa mà còn tạo cơ hội cho các em phát triển tư duy sáng tạo.
Các làng nghề Hà Nội khác như Bát Tràng, Quất Động, Phú Vinh cũng đi theo hướng số hóa, kết hợp thương mại điện tử với du lịch trải nghiệm, giúp tăng doanh thu và quảng bá văn hóa. Theo thống kê, nhiều hộ tại Phượng Dực ghi nhận doanh thu tăng 30–50% nhờ bán online. Việc số hóa còn giúp lưu trữ video hướng dẫn, tạo cơ hội nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nghề theo cách hiện đại.
Chuyên gia văn hóa Nguyễn Lan Hương nhận định: “Nếu muốn bền vững, các làng nghề phải xây dựng thương hiệu tập thể, đào tạo kỹ năng số cho nghệ nhân và tạo ra các sản phẩm mang tính sáng tạo, có giá trị gia tăng cao. Thương mại điện tử chỉ là công cụ, thành công còn phụ thuộc vào quản lý, kết nối và định hướng phát triển”. Chủ chuỗi sáng tạo Đoài Creative, Khuất Văn Thắng, bổ sung: “Các làng nghề khi biết tận dụng thương mại điện tử sẽ tăng doanh thu, giữ được thị phần. Quan trọng hơn, thế hệ trẻ thấy nghề hấp dẫn, muốn học nghề, muốn gắn bó với văn hóa làng”.
Nhờ số hóa và thương mại điện tử, nghề tò he không chỉ được bảo tồn mà còn có thể trở thành ngành kinh tế sáng tạo, gắn với du lịch, xuất khẩu và quảng bá văn hóa Việt Nam ra quốc tế. Những con tò he giờ đây không chỉ là đồ chơi, mà còn là biểu tượng văn hóa, kết tinh lịch sử, trí tuệ và tâm hồn người Việt. Sự kết hợp giữa truyền thống và công nghệ tạo ra cơ hội để nghề tồn tại bền vững và phát triển mạnh mẽ hơn trong thời đại số hóa.












