![]() |
Kể từ đầu năm 2025, giá gạo Việt Nam đã lao dốc xuống mức thấp nhất. |
Vui buồn chuyện xuất khẩu gạo
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2024, Việt Nam đã đạt kỷ lục cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu, khoảng 9 triệu tấn với 5,7 tỷ USD. Giá gạo xuất khẩu gạo bình quân cũng đạt mức cao nhất từ trước tới nay với trên 600 USD/tấn. Giá bình quân xuất khẩu gạo của Việt Nam trong ba năm vừa qua đã có hành trình tăng ấn tượng, tăng tới trên 28%, kéo theo kim ngạch xuất khẩu cũng tăng trưởng hai con số.
Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo sau Ấn Độ 17 triệu tấn, Thái Lan 10 triệu tấn. Ông Đỗ Hà Nam - Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Tập đoàn Intimex - đánh giá, Việt Nam đang tạo dựng ngành hàng lúa gạo với hướng đi khác biệt là tập trung vào gạo thơm, gạo chất lượng cao, giảm dần gạo cấp thấp. Năm 2024, xuất khẩu gạo lập kỷ lục xuất khẩu 9 triệu tấn năm 2024 nhờ sản xuất, kinh doanh theo nhu cầu thị trường. Về sản xuất, nông dân Việt Nam đang tập trung sản xuất các giống lúa chất lượng cao, được thị trường quốc tế ưa chuộng như Đài Thơm 8, OM 18, các giống ST,… bán được giá, hiệu quả kinh tế cao.
Việt Nam cũng nhập rất nhiều gạo giá rẻ từ Ấn Độ, Pakistan… để phục vụ chế biến và tiêu dùng cho phân khúc bình dân. Ngoài ra, còn có nguồn lúa gạo từ Campuchia vừa phục vụ tiêu dùng, vừa xuất khẩu do nước này chưa có hạ tầng chế biến tốt như Việt Nam.
Tuy nhiên, báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 2 ước đạt 560.000 tấn, thu về 288,2 triệu USD. Lũy kế đến hết tháng 2, nước ta xuất khẩu 1,1 triệu tấn gạo, giá trị đạt 613 triệu USD.
So với cùng kỳ năm ngoái, lượng gạo xuất khẩu tăng 5,9% nhưng giá trị lại giảm mạnh 13,6%. Lý do, giá xuất khẩu bình quân hai tháng đầu năm nay chỉ đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Đáng chú ý, Philippines là khách hàng tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 38,6%. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường truyền thống này giảm mạnh 35,5%.
Tương tự, khách hàng tiêu thụ gạo lớn thứ hai là Indonesia gần như tạm ngừng mua mặt hàng này của nước ta.
Ngược lại, một số thị trường khác lại tăng mua mạnh. Theo đó, xuất khẩu gạo sang Bờ Biển Ngà tăng 8,6 lần, sang Ghana tăng 4,1 lần, sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng đột biến hơn 600 lần.
Từ khi Ấn Độ dần nới lỏng lệnh cấm xuất khẩu gạo từ cuối năm 2024 đến nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục giảm. Gần đây, có thời điểm giá gạo xuống dưới mốc 400 USD/tấn, giảm gần một nửa so với thời điểm đạt đỉnh năm 2024.
Mới đây, ngày 7/3, chính phủ Ấn Độ đã quyết định phê duyệt đề xuất của Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ (REA) về việc dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm sau khi lượng tồn kho tăng vọt vào tháng 2, cao gấp gần 9 lần mục tiêu đề ra. Động thái báo hiệu sự thay đổi lớn trong chiến lược thương mại và an ninh lương thực của Ấn Độ.
Theo chính phủ Ấn Độ, việc nối lại xuất khẩu gạo 100% tấm của Ấn Độ sẽ cho phép các nước nghèo ở châu Phi đảm bảo nguồn cung ngũ cốc với giá thấp hơn, đồng thời hỗ trợ các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi và ethanol châu Á phụ thuộc vào loại gạo này.
Ông Himanshu Agrawal - Giám đốc điều hành của công ty xuất khẩu gạo hàng đầu Satyam Balajee - cho biết gạo 100% tấm của Ấn Độ hiện được chào bán với giá 330 USD/tấn, so với giá khoảng 300 USD/tấn từ các nhà cung cấp khác như Việt Nam, Myanmar và Pakistan.
Theo đánh giá của Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV), khi Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm, một lượng lớn gạo giá rẻ sẽ tràn vào thị trường, tạo áp lực lên các quốc gia xuất khẩu gạo khác, trong đó có Việt Nam. Việt Nam sắp bước vào vụ thu hoạch Đông Xuân - vụ có sản lượng lớn nhất năm. Thời tiết thuận lợi nên sản lượng dự báo dồi dào.
MXV cho hay, thời gian tới thị trường gạo thế giới sẽ còn cạnh tranh khốc liệt hơn nữa. Nhiều khả năng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ duy trì dưới ngưỡng 400 USD/tấn.
Định hình lại thương hiệu gạo Việt
![]() |
Một số doanh nghiệp gạo Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu và tạo dựng chỗ đứng trên thị trường quốc tế. |
Một số doanh nghiệp gạo Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu và tạo dựng chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Điển hình là các thương hiệu như gạo ST25 của ông Hồ Quang Cua. Trong đó, gạo ST25 đã mang lại niềm tự hào cho ngành nông nghiệp Việt Nam khi giành danh hiệu "Gạo ngon nhất thế giới".
Thành công của ST25 là minh chứng cho tiềm năng lớn của ngành gạo Việt Nam, tạo tiền đề để ngành gạo Việt Nam nâng tầm thương hiệu trên thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, việc phát triển thương hiệu gạo Việt còn một số khó khăn, như xây dựng lòng tin về chất lượng, thiếu hỗ trợ pháp lý trong việc bảo hộ thương hiệu quốc tế và chưa chú trọng thị trường nội địa.
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy nhận định, mặc dù sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn đạt con số ấn tượng (trung bình từ 7-8 triệu tấn mỗi năm) nhưng giá trị gia tăng của gạo Việt còn rất hạn chế. Nguyên nhân là gạo Việt vẫn chủ yếu xuất thô và thiếu một thương hiệu mạnh là rào cản lớn trong hoạt động xuất khẩu; chưa đủ sức cạnh tranh với gạo Thái Lan và gạo Ấn Độ. Đến nay, Thái Lan đã xây dựng được những dòng gạo cao cấp và có danh tiếng như hom mali; còn Ấn Độ có gạo basmati nổi tiếng toàn cầu.
Cùng với đó, Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào những thị trường dễ biến động như: Trung Quốc, Philippines, Indonesia và châu Phi. Đây là những thị trường có chính sách nhập khẩu dễ thay đổi theo tình hình kinh tế hoặc chính trị. Khi Trung Quốc giảm nhập khẩu, hoặc Philippines điều chỉnh thuế nhập khẩu, giá gạo Việt Nam lập tức bị ảnh hưởng mạnh. Trong khi Thái Lan và Ấn Độ có thị trường rộng hơn, bao gồm cả Mỹ, châu Âu và Trung Đông... nên ít bị ảnh hưởng khi một thị trường gặp biến động.
Thêm điểm yếu nữa ảnh hưởng đến giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt trên thị trường xuất khẩu là Việt Nam vẫn đang thiếu sự chủ động trong điều tiết cung cầu. TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn, cho biết, các nước xuất khẩu gạo lớn có chính sách điều tiết xuất khẩu linh hoạt hơn. Khi giá thế giới giảm, họ có thể giữ lại một phần nguồn cung để tránh bán tháo, hoặc tập trung vào những phân khúc cao cấp để duy trì giá trị. Trong khi đó, Việt Nam chưa có chiến lược dự trữ hợp lý, khiến giá dễ bị thao túng khi thị trường biến động.
Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ ngành lúa gạo, nhưng phần lớn vẫn tập trung vào sản lượng hơn là nâng cao giá trị. Nông dân vẫn bị phụ thuộc vào thương lái và doanh nghiệp xuất khẩu, không có tiếng nói mạnh trong chuỗi cung ứng. Để nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế, các chuyên gia lúa gạo cho rằng, cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ và chiến lược. Mục tiêu then chốt là phải xây dựng và phát triển được thương hiệu gạo Việt Nam. Để có thương hiệu, đòi hỏi phải phát triển giống lúa đặc sản (có chất lượng cao, hương thơm đặc trưng và giá trị dinh dưỡng vượt trội) tạo ra sự khác biệt và thu hút người tiêu dùng quốc tế. Song song đó, tiến hành đăng ký bảo hộ thương hiệu gạo Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu chính, đảm bảo quyền lợi và uy tín cho sản phẩm; chú trọng an toàn thực phẩm. Đây là những yếu tố quyết định để chinh phục thị trường quốc tế.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, để cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng cao cho sản phẩm. Việc áp dụng quy trình, kỹ thuật sản xuất tiên tiến và đạt được các chứng nhận an toàn thực phẩm, chất lượng như GlobalGAP, HACCP... giúp tăng niềm tin của người tiêu dùng và mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, theo lãnh đạo Bộ Công thương, cùng với xây dựng thương hiệu lúa gạo, cần đầu tư cho xúc tiến thương mại và quảng bá để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
![]() |
![]() |
![]() |