Tăng trưởng 14% trong tháng 7, xuất khẩu thủy sản khởi sắc |
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) ước tính xuất khẩu thủy sản trong tháng 7/2024 đạt trên 885 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023. Đây là mức tăng trưởng cao nhất kế trong 6 tháng qua, đồng thời là tháng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất kể từ đầu năm tới nay.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 5,28 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023.
Tháng 7, xuất khẩu tất cả các sản phẩm chủ lực đều có tăng trưởng khởi sắc hơn. Trong đó, xuất khẩu tôm tăng 11%, cũng là mức tăng trưởng cao nhất trong 7 tháng đầu năm. Trong đó, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc và EU tăng lần lượt 24% và 32%, trong khi xuất khẩu sang Mỹ tăng 9%, sang Nhật Bản tăng 4%, xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 21%.
Tính tới cuối tháng 7/2024, lũy kế xuất khẩu tôm đạt gần 2 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, tôm chân trắng đạt 1,45 tỷ USD,tăng 4%, tôm sú đạt 246 triệu USD, giảm 10%. Riêng xuất khẩu tôm hùm tăng gấp gần 3 lần đạt 145 triệu USD.
Xuất khẩu cá tra có tín hiệu sáng hơn với mức tăng 23% trong tháng 7. Trong đó, xuất khẩu sang tất cả các thị trường chính đều tăng trưởng 2 con số, từ 20-40%, trừ thị trường EU tăng nhẹ 5%. Lũy kế 7 tháng đầu năm xuất khẩu cá tra đạt gần 1,09 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trung Quốc vẫn là thị trường mục tiêu số 1 của cá tra Việt Nam, với giá trị 317 triệu USD, giảm 2,3% so với cùng kỳ năm 2023. Thị trường này tiêu thụ chủ yếu là cá tra cỡ lớn >1,2 kg/con dạng nguyên con hoặc sản phẩm phile.
Ngoài ra Trung Quốc cũng là thị trường tiềm năng cho sản phẩm phụ là bong bóng cá tra. Trong 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu bong bóng cá tra cả nước đạt khoảng 50 triệu USD, riêng xuất sang thị trường Trung Quốc đạt 40 triệu USD, chiếm 80%.
Xuất khẩu cá tra có tín hiệu sáng hơn với mức tăng 23% trong tháng 7 |
Sau khi liên tục tăng trưởng 2 con số, từ 16-32%, xuất khẩu cá ngừ tháng 7 đã tăng chậm lại, chi tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu cá ngừ đạt 555 triệu USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, 2 dòng sản phẩm xuất khẩu chính là cá ngừ đóng hộp, đóng túi và cá ngừ loin/phile đông lạnh (cũng là nguyên liệu đề sản xuất cá hộp).
Từ khi Nghị định 37/2024 có hiệu lực (từ 19/5/2024), doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá ngừ rơi vào tình thế “mệt mỏi” vì không mua được nguyên liệu cá ngừ đóng hộp đúng theo quy định mới yêu cầu cá ngừ vằn khai thác phải đạt kích cỡ tối thiểu 0,5m.
Trước tình hình này VASEP đã có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT báo cáo kiến nghị sửa đổi Nghị định 37 sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn, trong đó có nội dung liên quan đến quy định kích thước tối thiểu cá ngừ vằn.
Đồng thời, VASEP cũng gửi công văn tới doanh nghiệp hội viên để nghị tuân thủ quy định IUU và quy định tại Nghị định 37 trong thời gian chờ CP xem xét, sửa đổi.
VASEP cho biết, trong 2 tháng qua kể từ khi Nghị định 37 có hiệu lực, một số doanh nghiệp cá ngừ đã dừng hoàn toàn việc thu mua nguyên liệu cá vằn khai thác trong nước của ngư dân do không đảm bảo kích cỡ 100% đạt 0,5 mét trở lên.
“Hầu hết các cảng cá hiện nay cũng đã ngừng xác nhận nguyên liệu (giấy S/C) cho các lô hàng cá ngừ vằn do kích thước cá khai thác nhỏ hơn quy định của Nghị định 37. Trong khi giai đoạn này đang là 3 tháng “vào vụ” cao điểm (tháng 7, tháng 8, tháng 9) khai thác cá ngừ vằn của ngư dân Việt Nam”, VASEP cho hay.
Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm 2024 (triệu USD) | ||||
Sản phẩm | T7/2024 | Tăng, giảm (%) | T1-T7/2024 | Tăng, giảm (%) |
Tôm | 355,602 | 11,0 | 1.996,163 | 6,9 |
Cá tra | 175,164 | 22,8 | 1.093,610 | 7,7 |
Cá ngừ | 83,134 | 9,1 | 554,665 | 21,1 |
Cá khác | 156,396 | 3,0 | 1.021,278 | -4,4 |
Mực, bạch tuộc | 62,829 | 8,6 | 351,694 | 0,5 |
Nhuyễn thể có vỏ | 21,794 | 119,4 | 103,533 | 36,6 |
Nhuyễn thể khác | 1,140 | 207,9 | 5,935 | 74,2 |
Cua ghẹ và giáp xác khác | 29,126 | 53,7 | 154,194 | 70,5 |
Tổng | 885,185 | 13,7 | 5.281,072 | 7,2 |
Ngoài cá ngừ ra, các sản phẩm thủy sản khác như mực, bạch tuộc và các loại cá biển khác cũng trong tình trạng thiếu nguyên liệu để xuất khẩu, không được xác nhận nguyên liệu khai thác để xuất khẩu đi EU. Xuất khẩu các loại cá biển khác (trừ cá ngừ) cũng bị giảm hơn 4% trong 7 tháng đầu năm nay. Trong khi đó, xuất khẩu mực, bạch tuộc chỉ tương đương cùng kỳ năm 2023, đạt khoảng 351 triệu USD.
Top 4 thị trường chính có dấu hiệu hồi phục nhu cầu rõ rệt trong tháng 7 gồm: Trung Quốc & HK tăng 30%, Mỹ tăng 14%, Nhật Bản tăng 11% và EU tăng 14%.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ và Trung Quốc – HK đều tăng 10% và chiếm tỷ trọng tương đương nhau, chiếm gần 18% tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đạt trên 930 triệu USD. Xuất khẩu sang EU cũng tăng 10% đạt trên 600 triệu USD. Riêng xuất khẩu sang Hàn Quốc chỉ tăng nhẹ 1% đạt 426 triệu USD.
Xét về phân khúc sản phẩm đông lạnh, Mỹ và EU sẽ là 2 thị trường kỳ vọng trong nửa cuối năm trước những tín hiệu tích cực như kinh tế hồi phục, lạm phát giảm, lãi suất giảm có thể sẽ kích cầu ở những thị trường này.
Trong khi đó, xuất khẩu hàng đông lạnh sang Trung Quốc vẫn chưa đột phá với giá tương đối thấp. Đổi lại, Trung Quốc lại là điểm đến số 1 cho phân khúc thủy sản tươi, sống phục vụ cho nhà hàng, khách sạn, du lịch.
“Do vậy, các mặt hàng tươi sống như tôm hùm, cua, ngao, ốc...của Việt Nam sẽ vẫn hút khách hàng Trung Quốc trong thời gian tới”, VASEP dự báo.