Thái Nguyên xác định cây chè là sản phẩm nông nghiệp chủ lực Phát triển cây chè cổ Sà Dề Phìn gắn với du lịch cộng đồng Chè Đoỏng Pán - Từ “chè hoang” tạo nên thương hiệu |
Tỉnh Lai Châu tập trung nâng cao chất lượng vùng sản xuất nguyên liệu chè (ảnh minh họa) |
Theo đó, tính đến nay, toàn tỉnh Lai Châu có 8.888ha chè, trong đó diện tích chè kinh doanh 6.931ha, sản lượng từ đầu năm đến nay khoảng 32.500 tấn, đạt 67,7% kế hoạch.
Diện tích chè tham gia liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm trên 5.700ha, chiếm khoảng 64% tổng diện tích.
Ngoài ra, tỉnh Lai Châu đã có 211ha chè được cấp giấy chứng nhận theo các quy trình kỹ thuật an toàn (chiếm 2,4% tổng số diện tích chè toàn tỉnh), trong đó có 60ha được chứng nhận VietGAP; 25,96ha được chứng nhận hữu cơ và 125,57ha được chứng nhận RA (sản xuất bền vững).
Đáng chú ý, tỉnh Lai Châu có 92 cơ sở chế biến chè, trong đó có 23 công ty doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và 69 cơ sở chế biến nhỏ lẻ tập trung nhiều ở thành phố Lai Châu và huyện Tân Uyên.
Hầu hết, các sản phẩm chè của tỉnh đều được xuất khẩu đi các thị trường khó tính như: Đài Loan, Trung Quốc, Châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ,…
Không chỉ phục vụ việc xuất khẩu, hiện các công ty, doanh nghiệp, HTX... sản xuất chè của tỉnh Lai Châu đang tập trung đưa các sản phẩm từ chè vào nhiều chuỗi siêu thị lớn trên cả nước.
Tuy nhiên, theo việc khảo sát, đánh giá của tỉnh Lai Châu tại một số vùng trồng chè, công tác chăm sóc, thâm canh theo quy trình kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức.
Ngoài ra, trong khâu quản lý, sản xuất, thu mua, tiêu thụ chè... chưa thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp, HTX với người dân...
Chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp, HTX với người dân trong việc quản lý, khai thác.. (ảnh minh họa) |
Để khắc phục những vấn đề còn tồn đọng và tìm hướng phát triển sản phẩm cũng như vùng sản xuất nguyên liệu chè của địa phương, thời gian tới, UBND tỉnh Lai Châu đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường học hỏi, trao đổi kinh nghiệm của một số tỉnh có vùng nguyên liệu lớn để quản lý và nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu chè, quản lý thâm canh theo hướng an toàn.
Thành lập Đoàn công tác liên ngành đi kiểm tra tổng thể lại quá trình phát triển cây chè trên địa bàn tỉnh ở các góc độ: Toàn bộ quy trình, tiêu chuẩn, kỹ thuật sản xuất, thâm canh; tổ chức liên kết hình thành vùng nguyên liệu; hợp đồng liên kết, thu mua, chế biến; công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; buôn bán, cung ứng thuốc vật tư bảo vệ thực vật...
UBND các huyện, thành phố tập trung đẩy mạnh triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra; tổ chức và phát động các phong trào thi đua trong sản xuất nông nghiệp;
Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và hướng dẫn người dân trồng chè thực hiện ký hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi với doanh nghiệp, HTX.
Nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng ứng dụng công nghệ, chế biến sâu, hướng tới xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ sử dụng vật tư đầu vào trong vùng nguyên liệu (như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...)...
Ngoài ra, đẩy mạnh áp dụng và tuân thủ quy trình kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm vào sản xuất, chế biến chè (VietGap, hữu cơ...); xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc; hỗ trợ chuyển giao ứng dụng, đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh trên thị trường…