Bảo tồn di sản, tạo nền cho du lịch cất cánh Sáp nhập tỉnh thành và bài toán giữ hồn di sản Giữ hồn di sản trong không gian mới: Chìa khóa phát triển bền vững sau sáp nhập tỉnh |
Ghi danh quốc tế thể hiện sức mạnh mềm Việt Nam
![]() |
Phái đoàn Việt Nam vui mừng tại kỳ họp UNESCO khi Quần thể Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được ghi danh là Di sản Văn hóa Thế giới. |
Tháng 7/2025 đánh dấu cột mốc lịch sử với Việt Nam khi Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Đây là Di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam và là Di sản liên tỉnh thứ hai sau Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà.
Sự kiện này diễn ra tại Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản Thế giới tại Paris (Pháp), do Giáo sư Nikolay Nenov – Chủ tịch Kỳ họp – tuyên bố công nhận vào hồi 13 giờ 02 phút ngày 12/7/2025 (giờ Paris). Phát biểu tại kỳ họp, ông Nenov khẳng định: “Quần thể này rất quan trọng với toàn nhân loại, không chỉ với Việt Nam. Ý nghĩa của nó với cộng đồng tôn giáo và người dân bản địa là rất lớn”.
Không chỉ là một địa danh du lịch hay tôn giáo, quần thể Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc là hiện thân của dòng Thiền Trúc Lâm – hệ thống tư tưởng đặc sắc được sáng lập bởi Phật hoàng Trần Nhân Tông vào thế kỷ XIII. Dòng Thiền này không chỉ là biểu tượng của sự giác ngộ, mà còn là triết lý sống kết hợp hài hòa giữa Phật giáo Đại thừa với đạo đức Nho giáo, vũ trụ quan Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, bà Nguyễn Thị Hạnh – người trực tiếp chỉ đạo xây dựng hồ sơ – chia sẻ: “Hồ sơ được chuẩn bị bài bản, công phu, trải qua 13 năm từ nghiên cứu đến hoàn thiện. Giây phút được ghi danh là niềm tự hào lớn đối với toàn thể nhân dân ba địa phương và cả nước”. Theo bà, đây là kết quả từ sự phối hợp đồng bộ giữa các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh cùng các cơ quan trung ương như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao và Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia.
Đại sứ Ấn Độ tại UNESCO, ông Vishal V. Sharma, cũng bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ hồ sơ của Việt Nam, nhấn mạnh rằng Yên Tử không chỉ là điểm linh thiêng trong văn hóa Việt mà còn có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Chính sự kết nối giữa các giá trị văn hóa – tôn giáo – lịch sử đã thuyết phục các quốc gia thành viên UNESCO đồng thuận cao trong việc công nhận giá trị của quần thể này.
Việc ghi danh lần này không chỉ làm dày thêm kho tàng di sản quốc gia, mà còn tạo điều kiện để Việt Nam phát huy sức mạnh mềm văn hóa – yếu tố ngày càng trở nên quan trọng trong ngoại giao hiện đại. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ nhấn mạnh: “UNESCO công nhận là sự đánh giá cao với những giá trị nhân văn của Phật giáo Trúc Lâm cũng như nỗ lực bảo tồn của Việt Nam. Đây là thành quả ngoại giao văn hóa đặc sắc, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế”.
Bảo tồn di sản gắn với phát triển bền vững
![]() |
Không gian văn hóa Yên Tử – Côn Sơn – Kiếp Bạc sẽ được gìn giữ và phát huy giá trị theo định hướng bảo tồn gắn với phát triển bền vững. |
Việc được công nhận Di sản Thế giới là vinh dự lớn, nhưng cũng đồng nghĩa với trách nhiệm không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị. Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương cho rằng: “Thành công này là bước đầu, tiếp theo cần có các giải pháp thực tiễn để bảo tồn bền vững, đảm bảo di sản được sống cùng cộng đồng”.
Quần thể Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc bao gồm 12 điểm di tích, phân bố tại ba tỉnh với tổng diện tích vùng lõi 525,75 ha và vùng đệm 4.380,19 ha. Các di tích trải dài từ chùa Yên Tử, chùa Vĩnh Nghiêm đến Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc. Tất cả đều phản ánh đầy đủ các giai đoạn phát triển của Phật giáo Trúc Lâm, từ hình thành, thể chế hóa đến phục hưng và lan tỏa toàn cầu.
Theo bà Nguyễn Thị Hạnh, tỉnh Quảng Ninh sẽ chủ trì xây dựng đề án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản với mục tiêu “lan tỏa sâu rộng giá trị cao quý của di sản đến thế hệ hôm nay và mai sau”. Đồng thời, tỉnh sẽ phối hợp với Hải Phòng và Bắc Ninh hình thành không gian di sản thống nhất, vừa phục vụ du lịch văn hóa, vừa bảo vệ cảnh quan, môi trường.
Đặc biệt, Luật Di sản Văn hóa sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua cuối năm 2024 là nền tảng pháp lý mới giúp các địa phương và cơ quan quản lý triển khai hiệu quả công tác bảo tồn. Luật này đã nội luật hóa nhiều điểm quan trọng trong Công ước 1972 của UNESCO, như: đánh giá tác động di sản, kế hoạch quản lý bảo vệ Di sản Thế giới, gắn bảo tồn với phát triển bền vững và phục vụ cộng đồng.
Ý kiến của Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Trụ trì chùa Yên Tử, cũng rất đáng chú ý: “Chúng tôi sẽ từng bước đưa Yên Tử – Côn Sơn – Kiếp Bạc xứng tầm với kỳ vọng của nhân dân và của UNESCO. Đây là trách nhiệm thiêng liêng không chỉ với Phật giáo mà với cả đất nước”.
Có thể thấy, sự cộng hưởng giữa nỗ lực chính quyền, ý chí cộng đồng và hướng dẫn từ quốc tế là điều kiện then chốt để bảo tồn và phát huy di sản đúng nghĩa. Từ bài học của Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc, Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò là một quốc gia có bản sắc văn hóa đậm đà, có trách nhiệm với di sản nhân loại.