Phát triển thị trường vốn, giảm phụ thuộc tín dụng ngân hàng
Chiều 13/10, tại phiên tham luận chính thức Đại hội Đảng bộ Chính phủ nhiệm kỳ 2025–2030, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, trong bối cảnh biến động kinh tế toàn cầu phức tạp, Việt Nam đã và đang điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và hỗ trợ phục hồi tăng trưởng sau đại dịch.
![]() |
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng |
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, ngay từ đầu nhiệm kỳ, nền kinh tế Việt Nam đã đối mặt với nhiều cú sốc lớn do đại dịch COVID-19 gây đứt gãy chuỗi cung ứng, làm gia tăng lạm phát và khiến nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới phải thắt chặt chính sách tiền tệ nhanh và mạnh. Trong nước, thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp gặp khó khăn, cùng với sự cố rút tiền hàng loạt tại ngân hàng SCB đã tạo ra sức ép lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và sự đồng hành của doanh nghiệp, người dân, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp điều tiết tiền tệ, tín dụng hợp lý, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp, bảo đảm cung ứng vốn bình quân khoảng 15%/năm, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế cao sau đại dịch.
Trước sự cố tại SCB, cơ quan điều hành đã thể hiện bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm khi kịp thời tham mưu, triển khai các biện pháp ngăn ngừa rủi ro lan truyền, qua đó góp phần ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
![]() |
Giảm lãi suất, ổn định tỷ giá, hỗ trợ doanh nghiệp |
Giảm lãi suất, ổn định tỷ giá, hỗ trợ doanh nghiệp
Trong bối cảnh lãi suất quốc tế tăng cao, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì ổn định các mức lãi suất điều hành trong thời gian dài, chỉ điều chỉnh tăng khi cần thiết để ổn định tỷ giá, sau đó giảm trở lại. Nhờ vậy, mặt bằng lãi suất cho vay trong nước đã giảm khoảng 2%/năm so với cuối năm 2022, phản ánh nỗ lực lớn của ngành ngân hàng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, bất chấp áp lực quốc tế.
Thị trường ngoại hối cũng được điều hành linh hoạt, thông suốt. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, nhất là phục vụ nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, đều được đáp ứng kịp thời. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại đã triển khai nhiều giải pháp chia sẻ khó khăn với người dân và doanh nghiệp, như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi và phí, với tổng giá trị hỗ trợ lên tới khoảng 70.000 tỷ đồng. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng còn dành hơn 2.000 tỷ đồng cho chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và đóng góp đáng kể cho công tác phòng, chống đại dịch COVID-19.
Hướng tới tăng trưởng bền vững và ổn định vĩ mô
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nhiệm kỳ tới, tình hình kinh tế – tiền tệ thế giới tiếp tục tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định. Trong khi Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hai con số, việc giữ vững ổn định vĩ mô sẽ chịu áp lực lớn, nhất là khi động lực đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa thể giúp tăng nhanh năng suất lao động trong ngắn hạn.
Để đạt mục tiêu “tăng trưởng cao đi đôi với ổn định vĩ mô”, Đảng ủy Ngân hàng Nhà nước đề xuất tập trung khai thác dư địa chính sách tài khóa ở giai đoạn đầu nhiệm kỳ, song song với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phát triển thị trường vốn và trái phiếu doanh nghiệp để huy động nguồn lực trung và dài hạn. Đồng thời, cần thúc đẩy cải cách hành chính, tháo gỡ các “nút thắt” đầu tư, kinh doanh nhằm rút ngắn thời gian triển khai dự án, tăng vòng quay vốn và giảm áp lực tín dụng.
Khi triển khai các dự án kinh tế trọng điểm, cần đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, có trọng tâm, trọng điểm, phân kỳ hợp lý để tránh gây rủi ro cho ổn định kinh tế vĩ mô.
Với tinh thần chủ động, bản lĩnh và quyết tâm, ngành ngân hàng đặt mục tiêu tiếp tục đóng góp tích cực vào ổn định thị trường tài chính – tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao và phát triển bền vững trong giai đoạn tới.