Toàn cảnht tọa đàm “An toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp qua góc nhìn báo chí và truyền thông” do báo Kinh tế và Đô thị tổ chức |
Đó là ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp tại tọa đàm “An toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp qua góc nhìn báo chí và truyền thông” do báo Kinh tế và Đô thị cùng Hiệp hội Nhà sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường Việt Nam tổ chức tại TP Hồ Chí Minh vào chiều 08/12.
Đánh giá cao vai trò của thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong sản xuất nông nghiệp, ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hội doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV - VIPA bày tỏ ủng hộ chiến lược của chính phủ trong việc phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững và giá trị cao. Đây sẽ là trụ đỡ rất quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam nói chung.
“Nông dân là trung tâm của mọi hệ thống sản xuất lương thực, do đó để chuyển sang một hệ thống sản xuất bền vững hơn, nông dân cần được tiếp cận kịp thời và bình đẳng với những giải pháp - công cụ canh tác tiên tiến nhất; làm chủ và sử dụng các công cụ đó một cách có trách nhiệm và hiệu quả. Và để hỗ trợ họ, cần có các khung pháp lý phù hợp để khuyến khích ứng dụng các giải pháp BVTV mới, duy trì các sản phẩm BVTV hiện có theo cách bền vững với những phương án quản lý và giảm thiểu rủi ro phù hợp” - ông Nguyễn Văn Sơn nói.
Việt Nam hiện cũng đang là một mắt xích quan trọng trong nền sản xuất lương thực toàn cầu, hệ thống pháp lý của nước ta cũng cần hài hoà với những tiêu chuẩn và thực hành quốc tế để đảm bảo tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, TS. Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, kinh tế xanh, nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu mà ngành nông nghiệp Việt Nam phải đi theo để phát triển bền vững - hiệu quả.
Cuộc cách mạng xanh khởi đầu từ hơn 4 thập kỷ qua đã tạo ra một bước đột phá về năng suất và sản lượng trong nông nghiệp, nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự gia tăng nhanh mức độ ô nhiễm môi trường do việc sử dụng ngày càng nhiều phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc phòng trừ bệnh hại cây trồng, các nhóm thuốc trừ cỏ dại.
Nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu mà ngành nông nghiệp Việt Nam phải đi theo để phát triển bền vững - hiệu quả (ảnh minh hoạ) |
Hầu hết đất Việt Nam hiện tại có phản ứng chua (pH < 6,0); nghèo các dinh dưỡng đa lượng, trung lượng đặc biệt các chất dễ tiêu; nhiều vùng đất bị thoái hóa, giảm sức sản xuất; xuất hiện nhiều yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất cây trồng; cân bằng dinh dưỡng không ổn định và chuyển dịch theo hướng mất cân bằng dinh dưỡng trong đất gây nhiều bất lợi cho sự phát triển của cây trồng; phát triển nhiều dịch hại trong đất và trên cây trồng theo hướng xấu….Như vậy, rất khó có thể tìm được một diện tích đất trồng trọt có đủ tiêu chuẩn sạch để thỏa mãn được các yêu cầu và Qui chuẩn của Ifoam, USDA và các tổ chức hữu cơ khác.
Sản lượng phân hữu cơ sản xuất tại Việt Nam còn quá nhỏ so với yêu cầu của sản xuất thực tiễn. Chưa nói đến đáp ứng cho nhu cầu của nông nghiệp hữu cơ mà mới đề cập đến việc bón phân cân đối giữa vô cơ và hữu cơ cho thấy, cứ bón 1 kg phân vô cơ thì cần bón 3 kg phân hữu cơ. Như vậy, uớc tính mỗi năm ngành trồng trọt sử dụng gần 12 triệu tấn phân hóa học các loại thì phải cần đến 36 triệu tấn phân hữu cơ các loại. Hiện tại chúng ta mới đáp ứng được gần 3 triệu tấn phân hữu cơ các loại (theo số liệu về sản lượng phân hữu cơ của các doanh nghiệp sản xuất phân hữu cơ của Việt Nam tính đến tháng 6/2017).
Điều này có nghĩa, nếu đáp ứng được nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam cần phải có chiến, sách lược cho tiến độ sản xuất cũng như cung ứng đầy đủ các chủng loại và sản lượng phân hữu cơ.
“Chính phủ cần sớm có Nghị định và chính sách mang tính đột phá dành cho việc phát triển nông nghiệp hữu cơ và cũng nên có sự khác biệt giành riêng cho từng đối tượng như: nông dân; nhà đầu tư; doanh nghiệp nông nghiệp” - TS. Nguyễn Đăng Nghĩa kiến nghị.
Mặt khác, theo TS. Nguyễn Đăng Nghĩa cũng cần khuyến khích các bếp ăn tập thể, căng-Tin, các nhà hàng, trường học, bếp quân đội sử dụng nông sản, thực phẩm, rau quả hữu cơ. Nếu cần thiết cũng có thể trợ giá thêm cho nông sản hữu cơ giống như một số quốc gia đã làm.
Việt Nam cần sớm có một hệ thống chứng nhận có tính pháp lý, uy tín và đáng tin cậy được nước ngoài chấp nhận. Như vậy, thuận lợi cho việc xuất khẩu nông sản và mở rộng thị trường. Tham gia với tư cách thành viên của hệ thống NETWORK về sản xuất hữu cơ của thế giới và khu vực như: IFOAM; IFFOAM ASIA; ALGOA.
Muốn sản xuất nông nghiệp hữu cơ thì cũng cần phải có qui hoạch vùng, gianh giới cho các diện tích nông nghiệp hữu cơ để tránh nhiễm bẩn chéo từ các khu sản xuất nông nghiệp truyền thống và ô nhiễm bởi các nhà máy trong các khu công nghiệp. Các hệ thống thông tin, tuyên truyền từ Trung ương tới địa phương cũng cần thông hiểu cho đúng để kịp thời phổ biến cho mọi người biết về nông nghiệp hưu cơ.