![]() |
Cây cà phê phát triển khỏe mạnh khi được chăm sóc theo hướng hữu cơ. |
Xu thế tất yếu và hiệu quả thực tiễn
Việt Nam hiện tiêu thụ hơn 10 triệu tấn phân bón mỗi năm, trong đó phân vô cơ chiếm tới khoảng 90%, còn phân hữu cơ và các loại khác chỉ vào khoảng 10%. Việc lạm dụng phân hóa học kéo dài có thể khiến đất suy thoái, chi phí canh tác gia tăng, đồng thời gây nguy cơ tồn dư hóa chất trong nông sản. Trước thực trạng đó, nhiều địa phương phía Tây tỉnh Gia Lai, đã thúc đẩy chuyển đổi sang sử dụng phân hữu cơ và vật tư sinh học nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thị trường.
Tại xã Bờ Ngoong, gia đình anh Nguyễn Hữu Phước đã chuyển đổi 17 ha cà phê sang canh tác theo hướng hữu cơ từ năm 2020. Anh tận dụng phân chuồng từ chăn nuôi, ủ hoai kết hợp chế phẩm sinh học để bón cho cây. Nhờ vậy, đất vườn giữ ẩm tốt, giàu mùn, hệ vi sinh phát triển, giúp cây sinh trưởng ổn định, ít sâu bệnh, đồng thời giảm được khoảng 20–30% chi phí vật tư đầu vào. “Sản lượng có giảm nhẹ, nhưng hạt cà phê đồng đều, chất lượng vượt trội, giá bán cao hơn 30 – 40% so với sản xuất truyền thống. Quan trọng hơn là khách hàng tin tưởng, sẵn sàng mua lâu dài” – anh Phước chia sẻ.
Cũng là người gắn bó lâu năm với cây cà phê, bà Đào Thị Thủy (xã Bờ Ngoong) cho biết: “Mỗi năm bón 2 – 3 bao phân chuồng ủ hoai cho gốc cà phê giúp cho hạt cà chắc, nhân mẩy, không bị lép, bộ rễ khỏe. Trung bình có thể cho đến 7 kg nhân, thay vì chỉ khoảng 5 kg như cách chăm sóc thông thường.”
![]() |
Hạt cà phê cho năng suất cao hơn so với thông thường. |
Không chỉ ở cây cà phê, nhiều nông dân trồng hồ tiêu, sầu riêng... cũng đã bắt đầu giảm dần phân hóa học, thay thế bằng phân trùn quế, phân vi sinh hoặc chế phẩm sinh học. Kết quả là năng suất ổn định, chất lượng nông sản được nâng cao, đồng thời độ phì nhiêu của đất được cải thiện rõ rệt.
Định hướng nông nghiệp hữu cơ trên nền tảng vật tư xanh
Nghiên cứu cho thấy, phân hữu cơ đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo đất lâu dài: tăng độ phì nhiêu, cải thiện khả năng giữ nước, hạn chế xói mòn và cung cấp hệ vi sinh vật phong phú. TS. Nguyễn Xuân Trịnh – Giảng viên Trường Đại học Lâm nghiệp – Phân hiệu Gia Lai phân tích: “Phân bón hữu cơ có thể nói là một mắt xích rất quan trọng trong nền kinh tế tuần hoàn của nông nghiệp. Đối với phân trùn quế, loại phân này chứa hàm lượng vi sinh vật cao gấp hàng nghìn lần so với phân hữu cơ thông thường, giúp tiết ra các chất kích thích sinh trưởng tự nhiên, hỗ trợ cây phát triển cân đối và bền vững. Tuy nhiên, người nông dân không nên lạm dụng một loại duy nhất mà cần phối hợp với phân bò, tro mía hoặc phân xanh khác để cân đối dinh dưỡng theo từng giai đoạn sinh trưởng.”
![]() |
Trùn quế là loài giun đất có khả năng phân hủy chất hữu cơ thành phân bón giàu dinh dưỡng. |
Song song với đó, phân hữu cơ còn góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Theo FAO, việc tận dụng chất thải nông nghiệp để sản xuất phân hữu cơ giúp hạn chế tiêu thụ năng lượng hóa thạch trong sản xuất phân bón công nghiệp, đồng thời gia tăng khả năng cố định carbon trong đất. Điều này không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn đối với mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ông Đoàn Ngọc Có – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai – nhấn mạnh: “Để sản xuất nông sản sạch, khâu đầu vào phải bảo đảm an toàn, từ giống đến phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Tỉnh đang đẩy mạnh tập huấn, hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp và nông dân áp dụng vật tư xanh, xây dựng các mô hình sản xuất hữu cơ. Nhờ vậy, nhiều sản phẩm của Gia Lai không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật Bản.”
![]() |
Dây chuyền sản xuất phân bón hữu cơ trùn quế. |
Tính đến năm 2025, khu vực phía Tây tỉnh Gia Lai đã có hơn 100 ha diện tích trồng cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả và dược liệu được cấp chứng nhận sản xuất hữu cơ theo các tiêu chuẩn quốc tế như USDA (Hoa Kỳ), JAS (Nhật Bản), EU, cùng với tiêu chuẩn Việt Nam và Hàn Quốc. Dù diện tích còn khiêm tốn so với tổng quy mô nông nghiệp của tỉnh, song con số này đang tăng trưởng ổn định nhờ sự tham gia ngày càng nhiều của nông dân và doanh nghiệp.
Với lợi thế về đất đai rộng lớn, khí hậu đa dạng cùng hệ cây công nghiệp lâu năm, khu vực phía Tây tỉnh Gia Lai có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất hữu cơ gắn với sử dụng vật tư xanh. Mục tiêu đặt ra đến năm 2030 là đưa diện tích canh tác hữu cơ đạt trên 1% tổng diện tích đất trồng trọt, tập trung vào các cây trồng chủ lực như cà phê, hồ tiêu, điều, mía, lúa, rau màu và cây ăn quả. Đây được xem là hướng đi quan trọng nhằm nâng cao giá trị nông sản của địa phương, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu lâu dài.