Sản xuất ngô, đặc biệt là ngô lai lấy hạt của nước ta đã có thời hưng thịnh, với tổng diện tích cả nước có thời điểm được nâng lên gần 1 triệu ha. Cây ngô đã đóng vai trò cứu cánh, xóa đói nghèo cho nông dân trong một giai đoạn dài, nhất là các vùng miền núi, đồng thời đóng góp không nhỏ làm vào sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Tuy nhiên trước cơn lốc ngô nhập khẩu từ các nước có chi phí rất thấp như Mỹ, Argentina, Brazil..., với giá ngô nhập khẩu về cảng tại Việt Nam hiện chỉ dao động từ 5-6 nghìn đồng/kg. Với giá này, sản xuất ngô của nước ta những năm qua không còn sức cạnh tranh về giá thành sản xuất, theo đó ngày càng tụt mạnh về diện tích. Theo tính toán, tổng diện tích ngô trên thực tế của nước ta hiện nay chỉ còn dao động xoay quanh khoảng 600 nghìn ha và đang tiếp tục giảm sâu.
Trồng ngô lấy hạt ngày càng khó khăn do sự cạnh tranh của ngô nhập khẩu giá rẻ
Những năm vừa qua, người trồng ngô lấy hạt lao đao do giá ngô xuống thấp, tỷ lệ nghịch với chi phí phân bón, công thu hoạch và bảo quản... Hơn nữa, với đặc thù đất đai manh mún, giá thành sản xuất cao, trồng ngô lấy hạt của Việt Nam rõ ràng không phải là một lợi thế, nhất là trong bối cảnh cây trồng này đang chịu sự cạnh tranh của nhiều loại cây trồng khác có giá trị cao hơn như cây ăn quả, rau... Vì vậy, hướng đi cho sản xuất ngô Việt Nam trong giai đoạn tới, đó chính là ngô sinh khối và ngô thực phẩm.
Ngô sinh khối là giống ngô được trồng để lấy thân non phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi. Việc thu hoạch ngay từ khi cây chuẩn bị trổ cờ (hoa nở) giúp thời vụ của ngô sinh khối ngắn hơn đáng kể so với trồng ngô lấy hạt, qua đó, giảm thiểu tác động tiêu cực của thời tiết, thuận lợi cho việc bố trí thời vụ.
Theo người dân, phương pháp trồng ngô lấy sinh khối rút ngắn được thời vụ khá tốt, có thể bố trí tăng 1 đến 2 vụ sản xuất/ năm. Nếu trồng ngô lấy hạt thời gian cho thu hoạch tốn 110 - 125 ngày thì trồng ngô sinh khối chỉ mất 80 - 90 ngày
Việc rút ngắn thời vụ, không chỉ giảm nguy cơ rủi ro do điều kiện thời tiết, thiên tai mà còn có thể tăng vụ sản xuất, tăng thêm thu nhập và đặc biệt là giảm đáng kể lượng phân bón, do thời điểm cây ngô từ chín sáp đến chín hoàn toàn là giai đoạn sử dụng rất nhiều dinh dưỡng, làm cạn kiệt nguồn dinh dưỡng trong đất. Ngoài ra bán cây còn giảm được công thu hoạch, tách hạt và bảo quản.
Trồng ngô sinh khối được nhận định mang lại hiệu quả kinh tế cao, là hướng đi mới cho người nông dân trồng ngô
Đặc biệt, không chỉ năng suất sinh khối lớn mà năng suất hạt cũng lớn nếu để lấy hạt. Trọng lượng bắp tươi lúc thu hoạch sinh khối cao, bộ lá xanh, sạch bệnh, ít hao hụt khi thu hoạch, vận chuyển nên người thu mua cây rất thích và được nông dân ở đây tin tưởng "chọn mặt gửi vàng”.
Không chỉ mang lại lợi ích vượt trội về kinh tế, việc rút ngắn thời vụ giúp các hộ trồng ngô sinh khối tiết kiệm đáng kể lượng phân bón, thuốc trừ sâu độc hại, góp phần giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao sức khỏe cho người sản xuất và cộng đồng.
Tiềm năng phát triển ngô sinh khối ở nước ta còn vô cùng lớn
Hiện nay, ở Nghệ An và Hà Tĩnh có 2 trang trại chăn nuôi bò sữa của Vinamilk (Hương Sơn, Hà Tĩnh và Nghĩa Đàn, Nghệ An) và 1 trang trại của TH True milk tại Nghĩa Đàn, Nghệ An và một số trang trại chăn nuôi bò thịt khác. Do đó nhu cầu sử dụng ngô sinh khối làm thức ăn rất lớn.
Không chỉ các địa phương miền Trung là "địa bàn" của ngô sinh khối, mà cao nguyên Mộc Châu ở Sơn La, hay một số vùng của tỉnh Đồng Nai và Tây Nguyên như Đà Lạt cũng thích hợp cho việc trồng giống ngô này.
Cùng với việc phát triển đàn bò sữa, bò thịt chất lượng cao, nhu cầu thức ăn xanh tại Mộc Châu ngày một tăng lên. Nắm bắt được nhu cầu này, bà con nông dân đã chủ động chuyển đổi diện tích trồng ngô năng suất thấp sang trồng ngô dày lấy thân làm thức ăn cho bò. Cách làm này góp phần gia tăng giá trị kinh tế đối với cây ngô và đảm bảo nguồn lương thực dự trữ quanh năm cho đàn gia súc.
Hiện nay, việc trồng ngô làm thức ăn ủ ướp đang đem lại thu nhập gấp đôi cho người nông dân trong khi những chủ trang trại bò sữa chủ động được nguồn thức ăn giàu chất dinh dưỡng với giá thành hợp lý.
Mặc dù những năm gần đây, sản xuất ngô ngày càng thu hẹp đã khiến hoạt động của Viện gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Viện Nghiên cứu Ngô vẫn sẽ kiên định lấy cây ngô là đối tượng chính trong hoạt động nghiên cứu, chuyển giao ra sản xuất. Theo đó, Viện đã xác định ba hướng đi cho cây ngô trong giai đoạn tới.
Một là tiếp tục đầu tư sâu hơn nữa cho việc nghiên cứu chọn tạo các giống ngô lấy hạt theo hướng năng suất, sức chống chịu tốt.
Thứ hai, đó là tiến xa hơn một bước bằng việc hợp tác quốc tế, khai thác thị trường ngô giống tại nước ngoài.
Thứ ba cho cây ngô, đó là tập trung cho việc nghiên cứu, chọn tạo, hợp tác chuyển giao và sản xuất đối với hai mũi nhọn là ngô sinh khối và ngô thực phẩm.
Khánh Hòa