Miền Bắc: Cúng cá chép
Lễ cúng ông Công, ông Táo của người Bắc không thể thiếu cá chép, vật cưỡi của Táo quân khi lên chầu trời. |
Người miền Bắc thường cúng ông Công ông Táo khá sớm, thường từ ngày 20 đã rất nhiều nhà làm lễ, và 12 giờ trưa 23 tháng Chạp là cái mốc sau cùng. Mọi người quan niệm rằng cần cúng sớm để các Táo thần nhận lễ vật để lên chầu trời đúng hẹn. Nếu chiều hoặc tối ngày 23 mới cúng thì e rằng khi ông Táo lên đến thiên đình thì Ngọc đế đã bãi triều mất rồi. Mặt khác, nếu cúng muộn, ông Táo không chờ được để nhận lễ vì đã lên chầu từ trước.
Lễ vật cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc sẽ gồm ba bộ mã, trong đó 2 bộ là dành cho hai Táo ông, 1 bộ dành cho Táo bà. Mũ của Táo ông thì có hai cánh chuồn, mũ của Táo bà không có cánh chuồn. Ngoài ra, còn có các loại vàng mã khác cùng hương, hoa, oản, quả, cau, trầu. Những đồ vàng mã sẽ được hóa sau lễ cúng.
Mâm cơm cúng ông Công ông Táo là các món ăn truyền thống của người miền Bắc như xôi, gà, giò, chả, canh măng, nem... Ở nhiều địa phương của Bắc bộ còn cúng xôi chè, thường là chè bà cốt, nấu bằng nếp cái, xôi vò, đường nâu và gừng.
Lễ cúng ông Công, ông Táo của người Bắc không thể thiếu cá chép, vật cưỡi của Táo quân khi lên chầu trời. Tùy quan điểm của từng gia đình mà lễ vật là cá chép sống hay cá chép giấy. Đối với cá chép sống, số lượng được dâng cúng cũng khác nhau tùy từng gia đình, phổ biến nhất là 3 con cho 3 vị. Tuy nhiên, có những gia đình chỉ cúng 1 con tượng trưng, có nhà cúng 2 con cho có đôi có cặp. Sau lễ cúng, họ đốt vàng mã và tiễn ba ông đầu rau trong bếp bằng cách thả cá chép xuống ao hồ, vừa để Táo quân có phương tiện chầu trời, vừa có ý nghĩa phóng sinh, tích đức hành thiện.
Theo quan niệm, ngày này là thời gian nghỉ ngơi cũng như bàn giao của Hành khiển và Táo Quân nên các gia đình nên dọn dẹp lại bàn thờ tổ tiên, đốt hết chân nhang cũ và lau chùi bát hương sạch sẽ để chuẩn bị đón năm mới. Phong tục cúng ông Công ông Táo truyền thống đã được người miền Bắc giữ gìn bao đời nay, đây còn là dịp để các gia đình để các gia đình đoàn tụ và cùng nhau ôn lại những kỉ niệm sau một năm qua.
Miền Trung: Cúng ngựa giấy
Thay vì cá chép, người dân nhiều nơi ở miền Trung cúng ngựa giấy như đối với những vị thần khác. |
Người miền Trung cũng cúng ông Công ông Táo nhưng phong tục lại khác so với người miền Bắc. Họ vừa thờ Táo Quân trên Trang Ông, vừa thờ trên bàn thờ bếp. Vào tối 30, mùng 1 và ngày rằm, gia chủ đều dâng hoa quả hay thắp nén nhang trên bàn thờ, còn ngày thường thì phải thắp đèn dầu trong bếp, người phụ nữ trong nhà có trách nhiệm giữ sạch sẽ và yên tĩnh nơi bếp núc.
Thay vì cá chép, người dân nhiều nơi ở miền Trung cúng ngựa giấy như đối với những vị thần khác. Thường họ dâng một con ngựa giấy có yên cương đầy đủ, không cúng áo mũ cho các Táo như người miền Bắc. Ngoài ra, trong mâm cỗ cúng còn phải có cá thu hoặc cá ngừ, hoa tươi, trái cây và đặc biệt là bộ tượng Táo quân cũ cùng bộ tượng Táo quân mới đặt cạnh nhau.
Người miền Trung thường làm lễ tiễn Táo Quân sẽ lên thiên đình vào ngày 23 tháng Chạp rất trọng thể. Việc đầu tiên là phải thay cát mới trong lư hương và lau dọn bàn thờ ông Táo sạch sẽ. Sau khi cúng xong, gia chủ sẽ hạ tượng ba ông Táo cũ bằng đất nung trên bàn thờ bếp xuống và rước tượng ba ông Táo mới lên bàn thờ để bắt đầu một năm làm việc tiếp theo. Tượng các ông Táo cũ sẽ được đặt cạnh các am miếu ở đầu xóm hay ở dưới gốc cây cổ thụ ở ngã ba đường.
Bên cạnh đó, một số vùng như Huế và Hội An có tục dựng cây nêu trước nhà hay sân đình vào sáng ngày 23 tháng Chạp để xua đuổi ma quỷ khi các ông Táo “đi vắng” và làm lễ hạ cây nêu vào mùng 7 tháng Giêng. Lễ cúng chiều 30 Tết, họ lại rước thần về và sáng mồng 1 Tết an vị ông Táo mới. Điều đặc biệt là người Huế khi cúng lễ gì trong nhà cũng khấn vái để mời Thần Bếp về chứng giám.
Miền Nam: Cúng vào buổi tối
Bộ vàng mã "cò bay ngựa chạy" được người Nam Bộ dâng cúng trong lễ tiễn Táo quân về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp. |
Theo phong tục của người miền Nam xưa thì có nhiều điều khác biệt so với cách cúng ngày nay. Các gia đình thường cúng Táo quân vào buổi đêm, trong khoảng thời gian từ 20 giờ đến 23 giờ ngày 23 tháng Chạp. Người miền Nam quan niệm rằng lễ cúng ông Táo chỉ được thực hiện vào cuối ngày, khi cả gia đình đã dùng xong bữa tối, lúc này không phải dùng đến bếp núc để nấu nướng, không phiền đến các Táo thì mới là lúc thực hiện nghi lễ tiễn Táo quân lên chầu trời.
Tuy nhiên, do có sự giao thoa văn hóa nên thời gian cúng và mâm cỗ cúng ông Táo của người miền Nam ít nhiều có sự thay đổi. Nhiều nhà làm lễ tiễn ông Táo từ sáng sớm 23 tháng Chạp tại khu vực đặt bếp nấu. Mâm cỗ cúng ngoài những món mặn chủ đạo như nem, giò, bánh chưng, hành muối, gà luộc... còn có thêm những chén chè trôi nước, đĩa kẹo được làm từ mè đen và đậu phộng, Lễ vật cúng ngoài nhang đèn, 3 chung nước nhỏ, đặc biệt phải có bộ "cò bay, ngựa chạy" dùng để hóa sau khi xong lễ.
Bộ "cò bay, ngựa chạy" là những tấm giấy vàng mã in hình một con ngựa đang phi nước đại và một con cò với đôi cánh dang rộng, không có khung tre và gồm 2 phần khác nhau, một phần dùng trong lễ cúng tiễn và một phần dùng trong lễ rước ông Táo trở về gia chủ vào ngày 30 Tết.
Theo sách “Đặc khảo về Tín ngưỡng thờ Gia thần,” người dân Nam Bộ dùng bộ giấy "cò bay ngựa chạy" theo ý nghĩa ngựa chở ông Táo đi đường bộ rồi cò chở ông Táo bay về Trời. Tục dùng ngựa và cò làm vật cưỡi trong miền Nam bắt nguồn từ nghi thức "xá mã, xá hạc" theo nghi thức của Đạo giáo và của Phật giáo. Đây là nghi thức được tiến hành sau cùng trong các buổi cúng tế. Người ta gom tất cả các tờ sớ nhét vào ngựa giấy và hạc giấy để sẵn trong lễ cúng rồi đem đốt với ý nghĩa nhờ ngựa và hạc mang sớ đến những nơi cầu cúng trong Tam giới.
Dù ở mỗi vùng miền có một phong tục tập quán riêng, xong Tết cúng ông Công ông Táo là một ngày rất ý nghĩa và quan trọng trong dịp cuối năm của người Việt Nam.