![]() |
Không khí trang nghiêm trong khoảnh khắc ca khúc “Tiến quân ca” vang lên. Ảnh: Hải Nguyễn |
Hoàn cảnh ra đời của một bản hùng ca
Nhạc sĩ Văn Cao sáng tác “Tiến quân ca” vào mùa đông năm 1944, khi ông đang học dự thính tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Cuộc sống thời đó vô cùng khó khăn, tranh của ông không bán được, phải nhờ bạn bè họa sĩ giúp đỡ cơm ăn, phương tiện làm việc. Trong bối cảnh đó, ông gặp Vũ Quý – một cán bộ Việt Minh – và được giao nhiệm vụ đặc biệt: sáng tác một bản hành khúc cổ vũ tinh thần cách mạng.
Trong hồi ký, Văn Cao kể rằng sau buổi chiều lang thang khắp phố phường Hà Nội, chứng kiến cảnh người dân đói khổ, ông xúc động bật khóc khi nhớ đến đứa cháu nhỏ bị lạc. Đêm hôm đó, những nốt nhạc đầu tiên của “Tiến quân ca” ra đời trên căn gác nhỏ số 45 Nguyễn Thượng Hiền. Từ khung cửa sổ nhìn ra phố phường tang thương, ông lắng nghe tiếng xe bò chở xác người chết đói và ấp ủ một giai điệu giản dị để bất cứ chiến sĩ nào cũng có thể hát.
Ca khúc được viết và chỉnh sửa nhiều ngày, mở đầu bằng lời hát hào hùng:
“Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân rộn vang trên đường gập ghềnh xa…”
Ở lời hai, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới giữa núi rừng hiện lên:
“Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…”
Không chỉ dành riêng cho học viên quân chính kháng Nhật, nhạc sĩ muốn bài ca là tiếng gọi của cả dân tộc. Đó là lý do ông viết nên câu hát mạnh mẽ “Tiến lên! Cùng tiến lên!”.
Sau khi hoàn thành, Văn Cao giao bản thảo cho Vũ Quý. Đồng thời, ông còn tham gia phụ trách nhà in bí mật Phan Chu Trinh, trực tiếp khắc nhạc và in “Tiến quân ca” trên báo Độc Lập tại làng Bát Tràng. Từ đây, ca khúc được truyền đi khắp chiến trường, trở thành hồi kèn xung trận của cách mạng.
Từ khúc hành quân đến Quốc ca thiêng liêng
Tháng 8/1945, tại Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã trình lên ba ca khúc: “Diệt phát xít”, “Chiến sĩ Việt Minh” và “Tiến quân ca”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn “Tiến quân ca” làm Quốc ca vì giai điệu hùng tráng, ngắn gọn, dễ thuộc và thể hiện rõ tinh thần dân tộc.
Ngày 17/8/1945, trong cuộc mít tinh tại Nhà hát Lớn Hà Nội, lần đầu tiên “Tiến quân ca” được cất lên trước biển người cùng lá cờ đỏ sao vàng tung bay. Hai ngày sau, 19/8, nhạc sĩ Văn Cao trực tiếp chỉ huy Dàn hợp xướng Thiếu niên Tiền phong hát vang bài ca trong ngày nhân dân Hà Nội giành chính quyền. Đỉnh cao là ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, hàng chục nghìn người hòa giọng hát “Tiến quân ca” trong giờ phút thiêng liêng khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
![]() |
Nhạc sĩ Văn Cao qua ống kính của nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán. (Ảnh: Báo Quân đội nhân dân) |
Nhạc sĩ Văn Cao xúc động viết trong hồi ký: “Khi nghe tiếng hát của hàng vạn người cất lên, tôi hiểu rằng bài Quốc ca tức là Tiến quân ca không còn là của tôi nữa, Tiến quân ca đã thuộc về nhân dân.”
Trải qua những năm tháng kháng chiến, ca khúc luôn vang lên trong các sự kiện lớn của đất nước. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội đầu tiên, đã có ý kiến muốn thay Quốc ca bằng bài “Việt Nam minh châu trời đông”, nhưng khi nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi bắt nhịp hát “Tiến quân ca”, cả hội trường đồng thanh cất tiếng, và từ đó không ai còn bàn đến chuyện thay đổi.
Thậm chí, năm 1981, một cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới được tổ chức rầm rộ, thu hút hàng nghìn nhạc sĩ tham gia. Nhưng cuối cùng, Quốc hội quyết định giữ nguyên “Tiến quân ca”, bởi đó là ý nguyện của đông đảo nhân dân.
Đến năm 2016, thực hiện di nguyện của cố nhạc sĩ, gia đình Văn Cao đã hiến tặng ca khúc cho Nhà nước và nhân dân, chính thức trở thành tài sản chung của dân tộc.
Di sản bất tử của nhạc sĩ Văn Cao
Văn Cao không chỉ là tác giả của “Tiến quân ca” mà còn là một thiên tài đa tài. Sinh năm 1923 tại Hải Phòng, ông sớm bộc lộ năng khiếu âm nhạc, để lại nhiều ca khúc trữ tình lãng mạn như “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”. Sau khi bước vào con đường cách mạng, ông sáng tác những bản hùng ca như “Trường ca Sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”, “Làng tôi”. Ngoài âm nhạc, ông còn sáng tác thơ, vẽ tranh, viết báo.
Được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996, Văn Cao được xem là hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Với “Tiến quân ca”, ông đã để lại di sản bất tử – một ca khúc vừa mộc mạc, gần gũi, vừa hùng tráng, mãi là tiếng gọi của dân tộc trong hành trình giữ nước và dựng xây đất nước.
Nhạc sĩ An Hiếu – con trai nhạc sĩ An Thuyên – từng nhận định: “Lời ca mộc mạc nhưng sâu sắc, khẳng định tinh thần yêu nước. Giai điệu dễ nhớ, dễ thuộc và gần gũi với quần chúng. Cấu trúc bài hát chặt chẽ. Tôi luôn có nhiều cảm xúc khi nghe bài hát này.”
Trải qua 80 năm, “Tiến quân ca” không chỉ là một ca khúc, mà là biểu tượng bất diệt của khát vọng độc lập, tự do, là niềm tự hào thiêng liêng của mọi thế hệ người Việt Nam.