Người tiêu dùng Việt ngày càng ưu tiên chọn sản phẩm “xanh” Thương hiệu Việt kể chuyện bằng trải nghiệm xanh |
![]() |
1 / 1 Sản xuất ống hút bằng nông sản tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp sông Hồng (huyện Đông Anh). Ảnh: Hoàng Quý |
Khi giá trị xanh còn e ngại... trước túi tiền
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, xu hướng tiêu dùng xanh đang trở thành lựa chọn tất yếu trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Khảo sát của Hội Hàng Việt Nam chất lượng cao cho thấy, người tiêu dùng trong nước ngày càng ưu tiên sản phẩm tự nhiên, sản xuất theo quy trình bền vững, với mức độ ủng hộ đạt tới 4/5 điểm. Đây là tín hiệu tích cực cho các doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu phát triển xanh.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy một khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành vi. Trong số các tiêu chí khi lựa chọn sản phẩm, giá cả chiếm tới 44% sự quan tâm, đứng trong nhóm 5 yếu tố hàng đầu. Điều này lý giải vì sao các sản phẩm xanh, dù được đánh giá cao về chất lượng và tính an toàn, vẫn khó tiếp cận số đông người tiêu dùng.
Ví dụ điển hình là Fuwa Biotech, đơn vị sản xuất nước rửa chén từ enzyme sinh học lên men vỏ dứa. Một can dung tích 3,8 lít có giá 335.000 đồng, cao gấp 2-3 lần sản phẩm công nghiệp cùng loại. Ông Võ Văn Luật, Quản lý phía Nam của công ty, thừa nhận: “Giá sản phẩm thân thiện môi trường vẫn còn là rào cản trong việc mở rộng thị trường”.
Trong ngành thời trang, Faslink – doanh nghiệp hơn 15 năm theo đuổi mô hình bền vững – đã nghiên cứu và sản xuất thành công vải từ sợi lá dứa. Tuy nhiên, chi phí nghiên cứu và sản xuất khiến giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh với polyester hay cotton. Bà Nguyễn Bích Diền, Phó tổng giám đốc Faslink, chia sẻ: “Người tiêu dùng vẫn quan tâm nhiều hơn đến giá thay vì nguồn gốc tái chế của sản phẩm”.
Không chỉ doanh nghiệp lớn, các hợp tác xã nhỏ cũng chịu chung áp lực. HTX Sông Hồng của ông Lê Văn Tám sản xuất ống hút từ rau củ, hoàn toàn tự nhiên, thân thiện môi trường. Dù mỗi năm Việt Nam tiêu thụ 5,3 tỉ ống hút, sản phẩm này gần như không thể chen chân trong nước vì giá cao. Thị trường chính của HTX lại nằm ở Đức, Nhật Bản hay Hàn Quốc – nơi người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm tiền cho sản phẩm xanh.
Kết quả khảo sát của Deloitte Việt Nam càng cho thấy rõ thực tế này: có tới 50% người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm xanh, nhưng chỉ dưới 30% trong số họ sẵn sàng chi thêm tiền để mua. Túi tiền, cuối cùng, vẫn là yếu tố quyết định lớn nhất.
Cần những cái bắt tay để mở lối cho tương lai
![]() |
Giá cả sản phẩm "xanh" cao là thách thức lớn nhất để phổ biến tiêu dùng. Ảnh: LH |
Giá thành cao không chỉ do công nghệ mới hay quy mô sản xuất còn hạn chế, mà là hệ quả của cả chuỗi thách thức từ nguồn nguyên liệu đến khâu phân phối.
Trường hợp của Duy Tân Recycling cho thấy rõ điều này. Doanh nghiệp chuyên tái chế chai nhựa đã qua sử dụng để sản xuất hạt nhựa tái sinh đạt chuẩn thực phẩm, nhưng nguyên liệu thu gom thường bẩn và lẫn tạp chất. Chi phí phân loại, xử lý vì thế tăng cao, khiến giá nhựa tái chế đắt hơn nhựa nguyên sinh tới 20–30%. Ông Lê Viết Đông Hiếu, Trưởng phòng Phát triển bền vững của công ty, nhấn mạnh: “Nếu người tiêu dùng có ý thức phân loại rác tại nguồn, nguyên liệu sẽ sạch hơn, giúp tối ưu chi phí sản xuất và giảm giá thành sản phẩm cuối cùng”.
Một thách thức khác là đưa ý tưởng sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra sản xuất đại trà. Bà Nguyễn Bích Diền của Faslink cho biết, nhiều nghiên cứu về sợi vải từ chuối, nấm… rất tiềm năng nhưng chưa thể thương mại hóa do thiếu công nghệ phù hợp và sự kết nối liên ngành. Vải sợi dứa được coi là trường hợp hiếm thành công nhờ sự hợp tác chặt chẽ trong toàn chuỗi cung ứng. Theo bà, muốn các giải pháp xanh nhanh chóng đi vào cuộc sống, cần một hệ sinh thái liên kết đầy đủ từ nghiên cứu, sản xuất đến tiêu thụ.
Các chuyên gia đều khẳng định: phát triển bền vững là xu thế tất yếu. Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Hàng Việt Nam chất lượng cao, nhấn mạnh rằng chuyển đổi xanh “không còn là lý thuyết mà là hành động sống còn”. Ông Đặng Thanh Long, Trưởng phòng Đào tạo và Phát triển bền vững của Intertek Việt Nam, cho rằng các doanh nghiệp buộc phải cân bằng giữa Kinh tế – Môi trường – Xã hội (ESG) nếu muốn tồn tại lâu dài.
Để tháo gỡ rào cản, cần sự đồng hành từ nhiều phía. Doanh nghiệp phải tiếp tục đầu tư công nghệ nhằm tối ưu chi phí sản xuất. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính, truyền thông, đặc biệt cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Người tiêu dùng cũng giữ vai trò quyết định khi thực hành phân loại rác tại nguồn và ưu tiên lựa chọn sản phẩm xanh trong khả năng chi trả.
Như ông Lê Văn Tám của HTX Sông Hồng chia sẻ: “Chỉ khi Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng cùng đồng hành, lan tỏa ý thức trách nhiệm, chúng ta mới có thể xây dựng được một môi trường xanh, sạch và phát triển bền vững cho thế hệ tương lai”.
![]() |
![]() |
![]() |