Sản phẩm OCOP mây tre đan Thảo mộc Lâm Bình thân thiện với môi trường Xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm giảm tốc Thanh Hóa: Làng nghề mây tre đan nhộn nhịp sản xuất đầu xuân |
Nhiều cơ hội cho Việt Nam chiếm lĩnh thị trường mây, tre đan. Ảnh L.K |
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 3/2024, nhóm mặt hàng mây, tre, cói, thảm lập kỷ lục cao nhất trong 2 năm qua, đạt 85 triệu USD, tăng 79,9% so với tháng 2/2024 và tăng 35,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung, trong 3 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm đạt 212,07 triệu USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Đây là tín hiệu đáng mừng bởi trong tháng 2, nhóm sản phẩm này giảm mạnh do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài, chỉ đạt 47,26 triệu USD, giảm 40,7% so với tháng 1/2024; giảm 16,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Sản phẩm mây, tre, cói, thảm xuất khẩu sang 59 thị trường; trong đó chủ yếu là xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 14,48 triệu USD, tăng 8,4%; Vương quốc Anh đạt 2,75 triệu USD, tăng 30,4%; Nhật Bản đạt 2,26 triệu USD, tăng 3,1%; Tây Ban Nha đạt 2,19 triệu USD, tăng 9,1%…
Tiềm năng của mây, tre đan Việt Nam
Việt Nam nằm trong nhóm xuất khẩu lớn sản phẩm mây, tre, cói, thảm. Các chuyên gia nhận định, khả năng chiếm lĩnh 10 - 15% thị phần thế giới là hoàn toàn khả thi. Khi quy mô thị trường tre toàn cầu dự kiến đạt 82,9 tỷ USD vào năm 2028, mây, tre có thể mang về hàng tỷ USD cho Việt Nam.
Cơ hội cho Việt Nam chiếm lĩnh thị trường mây, tre đan rất nhiều bởi diện tích tre trong nước lên đến 1,5 triệu ha, phân bố ở hầu hết các tỉnh trên cả nước, trong đó có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000ha. Tài nguyên tre Việt Nam phong phú và đa dạng với hàng trăm loài, trong đó có một số loài kinh tế cao như luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông, tre gai.
Đặc biệt, cả nước có trên 1.000 làng nghề mây, tre đan, chiếm 24% tổng số các làng nghề thủ công mỹ nghệ. Trong đó, khu vực phía Bắc và miền Trung tập trung nhiều về các sản phẩm mây tre lá và cói, còn khu vực Tây Nam bộ tập trung nhiều các sản phẩm về bèo tây, lá buông.
Theo các chuyên gia với việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như: RCEP, CPTPP, EVFTA… mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam; nhất là những thị trường có nhu cầu lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản… Trong khi đó, nghề mây tre đan gần như bị xóa sổ ở các nước phát triển do không thể ứng dụng dây chuyền công nghiệp để cơ giới hóa. Đây là cơ hội vàng cho các làng nghề truyền thống Việt Nam.
Một số thị trường mới nổi những năm gần đây như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Nga, Australia… đang có xu hướng nhập khẩu nhiều các mặt hàng mây, tre đan từ Việt Nam. Cụ thể, những năm gần đây, Trung Quốc và Tây Ban Nha đã gia tăng nhập khẩu các mặt hàng mây tre đan Việt Nam với mức tăng đáng kể, đó là cơ hội để cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như mây, tre đan, cói, thảm có cơ hội tăng tốc.
Thay đổi để vươn xa
Xu hướng tiêu dùng và sử dụng sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thay đổi, đòi hỏi quy trình sản xuất phải minh bạch, rõ ràng. |
Thừa nhận thời cơ cho mây, tre Việt Nam nhưng ông Lê Bá Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ (Vietcraft) cho rằng, xu hướng tiêu dùng và sử dụng sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thay đổi, đòi hỏi quy trình sản xuất phải minh bạch, rõ ràng, từ vùng nguyên liệu đến cả quá trình làm ra sản phẩm.
Đồng thời, các làng nghề cần thiết kế đẹp hơn, áp dụng công nghệ thông tin giúp sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu thị trường, cũng như có nhiều thông điệp hơn về giá trị nhân văn và giá trị văn hóa.
Ông Ngọc cũng cho biết, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các thị trường như Ấn Độ, Mexico, Thái Lan… Do đó, ông khuyến cáo doanh nghiệp, HTX, người sản xuất nên khai thác thêm một số thị trường như Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mexico, Chile… bên cạnh các thị trường truyền thống.
"Nếu đầu tư phát triển hệ thống thiết kế một cách bài bản cho ngành hàng, kim ngạch xuất khẩu chắc chắn không dừng lại như hiện nay và sẽ sớm vươn lên nhóm tỷ USD", ông Ngọc nhận định.
Trong khi đó, Ông Phạm Quốc Khánh, Trưởng Ban vận động thành lập Hiệp hội Tre Việt Nam chỉ ra một số điểm yếu cần khắc phục như, lực lượng lao động tại các làng nghề ngày càng giảm, trong khi nhu cầu thị trường vẫn lớn. Liên kết giữa các hiệp hội mây, tre, lá với các doanh nghiệp khác cũng như các hiệp hội thủ công mỹ nghệ còn yếu; công tác xúc tiến thương mại đối với ngành thủ công mỹ nghệ và mây tre đan còn hạn chế, kém hiệu quả.
“Các nhà nhập khẩu quan tâm đến các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa về chất lượng, xã hội, môi trường, an ninh… Trong khi đó, có chưa đến 20% doanh nghiệp mây, tre đan của Việt Nam đáp ứng được một số tiêu chuẩn hợp quy. Điều này làm giảm cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp", ông Khánh nêu thực tế.
Để tạo nên những sản phẩm mây tre đan đạt chuẩn xuất khẩu, ông Khánh cho rằng cần đầu tư rất nhiều kinh nghiệm, sáng tạo và công sức. Các làng nghệ luôn phải xây dựng quy trình sản xuất rõ ràng, chi tiết, chú tâm trong việc lựa chọn từ nguyên vật liệu đầu vào tới các mẫu mã sản phẩm đến sản phẩm đầu ra.
Đầu tiên, nguyên liệu phải được lựa chọn lựa kỹ càng đủ thời gian từ những cây mây, tre đạt chuẩn không non không già, hay những cây mây ‘bánh tẻ’ phải được dốc hết gai một cách cẩn thận. Tiếp đó, chúng sẽ được trải qua quá trình sơ chế với nhiều công đoạn kỳ công như ngâm nước cho mềm, chẻ nan hay tuốt nhỏ để cho vừa kích thước, phơi sấy để đạt độ khô dẻo nhất định… Kế tiếp, nguyên liệu sẽ được luộc trong nước sôi hoặc sấy khói rơm để có màu đẹp tự nhiên, cuối cùng mới đến tay người thợ để đan thành các sản phẩm.
Từ nguyên liệu sơ chế người nghệ nhân thực hiện phải có trình độ chuyên môn, thẩm mỹ cao, kỹ thuật khéo léo, đôi bàn tay dày dặn kinh nghiệm và sự kiên nhẫn, tỉ mỉ. Mỗi thị trường nhập khẩu sẽ có một nhu cầu sử dụng và xu hướng yêu thích hình dáng và công dụng của sản phẩm khác nhau, người nghệ nhân sẽ lựa chọn chất liệu, quyết định kiểu dáng và phối hoa văn sao cho phù hợp.
“Những sản phẩm mây tre đan càng đơn giản thì càng cần nhiều sự sáng tạo của nghệ nhân, để những sản phẩm đó trở nên nghệ thuật và đặc biệt hơn. Trong số đó không ít những sản phẩm mất đến tháng trời để có thể hoàn thiện”, ông Khánh nói.