Nhập khẩu hạt điều từ Campuchia tăng tới 550% 5 tháng đầu năm, nhập khẩu hạt điều đạt 1,4 triệu tấn Xuất khẩu hạt điều thu về 1,3 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm |
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan trong 5 tháng đầu năm 2021 khối lượng hạt điều các loại nhập khẩu đạt 1,41 triệu tấn, tương đương 2,21 tỷ USD, giá trung bình 1.562 USD/tấn, tăng cả về lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2020, với mức tăng tương ứng 247%, 281% và 9,7%.
Trong khi đó, xuất khẩu hạt điều 5 tháng đạt trên 1,27 tỷ USD. Như vậy ngành điều đang nhập siêu 934,56 triệu USD, trong khi cùng kỳ năm 2020, Việt Nam xuất siêu 648,35 triệu USD hạt điều.
Ngành điều đang nhập siêu 934,56 triệu USD |
Riêng tháng 5/2021 nhập khẩu 271.173 tấn hạt điều, tương đương 386,43 triệu USD, giá trung bình 1.422,2 USD/tấn, giảm 42% về lượng, giảm 49% về kim ngạch và giảm 12,7% về giá so với tháng 4/2021; so với tháng 5/2020 thì tăng mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá với mức tăng tương ứng 147,8%, 185% và 15%.
Campuchia - thị trường chủ yếu cung cấp hạt điều cho Việt Nam, chiếm 66,4% trong tổng lượng và chiếm 71,2% tổng kim ngạch nhập khẩu hạt điều của cả nước, đạt 939.018 tấn, tương đương 1,57 tỷ USD, giá hạt điều nhập khẩu trung bình 1.675 USD/tấn, tăng 395% về lượng, tăng 551% về kim ngạch và tăng 31,5% về giá so với cùng kỳ năm 2020. Riêng tháng 5/2021 giảm 74% cả về lượng và kim ngạch nhưng tăng 4,5% về giá với tháng 4/2021, đạt 105.143 tấn, tương đương 182,6 triệu USD, giá 1.736,7 USD/tấn.
Ngoài thị trường chủ đạo Campuchia, Việt Nam còn nhập khẩu hạt điều từ một số thị trường như: Cộng hòa Tanzania 144.638 triệu tấn, tương đương 209,38 triệu USD, giá 1.447,6 USD/tấn, tăng 151,9% về lượng, tăng 119,8% về kim ngạch nhưng giảm 12,7% về giá so với cùng kỳ năm trước, chiếm 10% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu hạt điều của cả nước; Bờ Biển Ngà đạt 144.417 tấn, tương đương 186,66 triệu USD, giá 1.292,5 USD/tấn, tăng 251,6% về lượng, tăng 165,6% về kim ngạch nhưng giảm 24,5% về giá so với cùng kỳ năm trước, chiếm 10,2% trong tổng lượng và chiếm 8,5% trong tổng kim ngạch;
Ghana đạt 69.054 tấn, tương đương 78,73 triệu USD, giá 1.140 USD/tấn, tăng 54,9% về lượng, tăng 44,6% về kim ngạch nhưng giảm 12,3% về giá; Nigeria đạt 22.547 tấn, tương đương 27,34 triệu USD, giá 1.212,5 USD/tấn, tăng 6,5% về lượng nhưng giảm 2,6% về kim ngạch và giảm 8,6% về giá; Indonesia đạt 18.268 tấn, tương đương 23,32 triệu USD, giá 1.276 USD/tấn, giảm 30% về lượng, giảm 39,7% về kim ngạch và giảm 13,8% về giá so với cùng kỳ năm trước.