Gừng có nguồn gốc ở Ấn độ và Malaysia, nhưng cho tới nay, gừng được trồng ở nhiều nơi trên thế giới. Ấn Độ, Nhật Bản, Úc là những nước trồng nhiều gừng để xuất khẩu.
Theo ghi chép cổ có trong Luận ngữ, Khổng Tử viết: "Bất triệt khương thực, bất đa thực" được dịch là "chẳng bỏ ăn gừng, chẳng ăn nhiều" để nói nên vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh của gừng, tuy nhiên cũng không phải vì tốt mà lạm dụng ăn nhiều.
Gừng tươi cũng như gừng đã bảo quản được nhập khẩu vào châu Âu trong thời kỳ Trung Cổ. Tại Anh thế kỷ 14 thì 1 pound (0,453 kg) gừng có giá ngang với giá một con cừu.
Ở nước ta, gừng được trồng khắp mọi nơi, chủ yếu có nhiều ở Hải Phòng (Cát Bi), Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La, Lào Cai…
Theo Nhà khoa học, lương y Bùi Sắc Sáng, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hội Đông y Hà Nội, gừng được sử dụng làm gia vị trong ăn uống và phòng bệnh. Từ thời đại các Vua Hùng đã dùng gừng ăn với thịt chim, cá, ba ba cho đỡ lạnh, dễ tiêu. Từ xa xưa, người dân cũng đã sử dụng gừng, hành, tỏi, ớt, tía tô làm gia vị ăn hàng ngày để phòng bệnh.
Trong y học cổ truyền, lá và củ gừng là 2 bộ phận được dùng làm thuốc nhiều hơn cả. Trong đó, đặc biệt là củ gừng có chứa nhiều hoạt chất dược lý. Củ gừng có chứa: tinh dầu 2-3%; nhựa dầu 5%; tinh bột; chất cay (Zingeron, Zingerol, Sogal).
Lương y Bùi Đắc Sáng cho biết riêng với củ gừng thì gừng sống, gừng khô hay gừng nướng cháy lại có những tác dụng phòng và chữa nhiều bệnh khác nhau. Do vậy, khi biết tính vị của từng loại gừng sẽ giúp cho việc làm thuốc đạt được tối đa mục đích.
Ví dụ, sinh khương (gừng sống) có vị cay, tính hơi ấm; quy kinh : Phế, Tỳ, Vị. Tác dụng của gừng sống dùng trong trường hợp chống lạnh, tiêu đờm, chặn nôn, lợi tiêu hoá.
Thán khương (gừng nướng cháy) có vị cay, tính ấm; quy kinh : Phế, Tỳ, Vị. Gừng nướng thường được dùng trong trường hợp lạnh bụng đi ngoài.
Can khương (gừng khô) có vị cay, tính nóng; quy kinh : Phế, Tỳ, Vị. Gừng khô dùng tán phong hàn chủ trị cảm lạnh, thổ tả.
Không chỉ củ gừng mà vỏ gừng cũng được dùng làm thuốc. Do vậy, khi sử dụng gừng nên rửa sạch và dùng cả vỏ. Vỏ gừng (hương bì) cóvị cay, tính hơi ấm, quy kinh: Phế, Tỳ, Vị. Vỏ gừng được dùng trong các trường hợp tiêuphù thũng.
Lợi ích của gừng với sức khỏe
Giảm nhẹ các vấn đề về dạ dày
Từ lâu gừng luôn được sử dụng để điều trị những người có vấn đề về tiêu hóa và đau dạ dày. Nó cũng có thể được sử dụng để giảm buồn nôn và giảm nôn mửa thường xảy ra trong thời kỳ mang thai và sau khi điều trị y tế như phẫu thuật và hóa trị.
Gừng cũng có thể hỗ trợ làm giảm các cơn đau trong thời kỳ kinh nguyệt.
Một số nghiên cứu đã chứng minh tác dụng làm dịu dạ dày của gừng. Ngoài việc giảm buồn nôn và nôn sau phẫu thuật, loại thảo mộc này còn làm giảm các triệu chứng say tàu xe và ốm nghén. Có lẽ bằng chứng tốt nhất về tác dụng chống buồn nôn này là ở những người đang điều trị ung thư.
Lợi ích của gừng với các loại bệnh đường tiêu hóa khác ít rõ ràng hơn. Một nghiên cứu năm 2014 từ Đại học Bắc Carolina kết luận rằng gừng không giúp giảm các triệu chứng hội chứng ruột kích thích nhiều hơn giả dược.
Theo một nghiên cứu năm 2012 từ Ấn Độ, gừng dường như cũng có tác dụng tối thiểu đối với chứng trào ngược axit, nó có thể hỗ trợ chữa lành vết loét dạ dày liên quan đến trào ngược dạ dày khi được sử dụng kết hợp với men vi sinh.
Gừng chữa cảm lạnh thông thường
Gừng luôn là phương thuốc chữa cảm lạnh thông thường tại nhà số 1. Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2013 bởi Jung San Chang và nhóm, đã khẳng định khả năng điều trị của nó.
Qua nghiên cứu này, người ta thấy rằng ăn gừng tươi có thể tăng cường hệ thống hô hấp của cá nhân và bảo vệ họ khỏi virus đường hô hấp như cảm lạnh thông thường.
Gừng cải thiện sức khỏe răng miệng
Gingerols, một hợp chất tích cực có trong gừng, được biết đến với công dụng bảo vệ miệng và ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn xấu trong miệng.
Sự phát triển và lây lan của vi khuẩn này trong miệng có thể gây ra sự phát triển của bệnh nha chu, một bệnh nướu răng nghiêm trọng. Gừng không chỉ diệt trừ vi khuẩn mà còn làm trắng sáng răng của bạn.
Gừng chống lại chứng viêm
Gừng chứa một chất chống viêm gingerol có thể giúp điều trị cơn đau mạn tính hoặc cấp tính. Các loại tinh dầu có trong gừng hoạt động như chất chống viêm và chống lại các bệnh nhiễm trùng.
Một đánh giá năm 2015 về các nghiên cứu kết luận rằng gừng có "hiệu quả khiêm tốn" trong việc điều trị viêm xương khớp. Kết quả tương tự cũng được thấy với bệnh viêm khớp dạng thấp và các tình trạng không phải viêm khớp như viêm gân và viêm bao hoạt dịch.
Gừng giúp hỗ trợ giảm lượng đường trong máu
Một nghiên cứu năm 2008 từ Iran kết luận rằng việc bổ sung 3g gừng mỗi ngày, trong 45 ngày, đã cải thiện hồ sơ lipid của 45 người có cholesterol cao.
Trong một nghiên cứu được công bố vào năm 2014, người ta đã chứng minh rằng những người mắc bệnh đái tháo đường type 2 dùng 1600 mg bột gừng mỗi ngày trong 12 tuần đã báo cáo giảm tổng lượng cholesterol và chất béo trung tính đồng thời cải thiện độ nhạy insulin của họ.
Điều này có nghĩa là gừng không chỉ giúp hỗ trợ giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2 mà còn giúp hỗ trợ kiểm soát bệnh tốt hơn.
Gừng giúp hỗ trợ giảm nguy cơ ung thư
Gừng chứa nhiều chất chống oxy hóa, và nhiều nghiên cứu khác nhau đã chứng minh rằng việc bổ sung gừng vào chế độ ăn uống có thể làm giảm căng thẳng oxy hóa một cách hiệu quả. Căng thẳng oxy hóa xảy ra khi có sự tích tụ gốc tự do trong cơ thể.
Gốc tự do là những chất độc hại được hình thành do quá trình trao đổi chất của cơ thể, cùng với các yếu tố khác nhau. Nếu không được loại bỏ, sự tích tụ này có thể gây ra tổn thương tế bào và cuối cùng có thể dẫn đến ung thư.
Khi gừng được đưa vào chế độ ăn uống của cá nhân, nó sẽ giúp loại bỏ sự tích tụ này và do đó hỗ trợ làm giảm nguy cơ phát triển ung thư.
Gừng giúp giảm đau và làm dịu cơ bắp mệt mỏi
Mặc dù gừng không hoạt động như một phương pháp chữa bệnh thần kỳ cho cơ bắp mệt mỏi của bạn, nhưng nó có tác dụng làm dịu cơn đau về lâu dài. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người bao gồm gừng trong chế độ ăn hàng ngày của họ ít có nguy cơ bị mỏi cơ vào ngày hôm sau hơn so với những người không có gừng trong chế độ ăn của họ.