Muốn trồng cây trong nhà đẹp như ý cần tuyệt đối tránh 4 sai lầm sau đây Cách ăn uống hiệu quả để phòng tránh bệnh Gout Vô vàn tác dụng hay ho từ củ nghệ có lẽ bạn chưa biết |
Gừng tươi
Trong y học cổ truyền, gừng tươi được gọi là sinh khương, là một trong những vị thuốc tân ôn giải biểu, có vị cay, nóng, mùi thơm, tính ấm.
Gừng tươi có tác dụng phát tán phong hàn, chữa cảm mạo phong hàn, ngạt mũi, ho có đờm, nôn mửa, làm ấm dạ dày trong các trường hợp bụng đầy chướng, ăn không tiêu, khí huyết ngưng trệ, chân tay lạnh. Ngoài ra còn dùng làm thuốc xoa bóp và đắp ngoài chữa sưng phù và vết thương.
Cách dùng:
Trị cảm mạo phong hàn: Tía tô 10g, kinh giới 10g, bạc hà 10g, bạch chỉ 6g, địa liền 6g, vỏ quýt 6g, sinh khương 3 lát. Sắc uống ngày 1 thang trong 3 ngày.
Chữa tai biến mạch máu não: Uống nước sắc kinh giới hoà với nước cốt gừng. nước măng vòi (lấy vòi tre hơ lửa vắt lấy nước cốt) và rượu, các thành phần với liều lượng bằng nhau.
Chữa vàng da, tiểu tiện không lợi, suyễn hoặc bệnh đến giai đoạn nguy cấp: Gừng sống, củ chóc, mỗi vị 320g. Sắc uống làm 2 lần
Chữa ho lâu ngày: Gừng sống giã lấy nước cốt (1 thìa) tròn mật ong (1 thìa). Đun nóng, uống dần ít một.
Chữa hen: Nước gừng sống. nước chanh, sữa người. đồng tiện, đều I chén. Hảm ấm và uống. cho đến khì khỏi
Chữa lạnh, cước chân tay vào mùa đông: Rễ lá lốt, gừng tươi đun nước ngâm chân, có thể cho thêm ít muối khi ngâm.
Dùng trà gừng cho trường hợp bị tụt huyết áp: Gừng tươi rửa sạch, loại bỏ vỏ, đem xay nhuyễn và đem nấu với đường kính. Bảo quản trong lọ thủy tinh dùng dần. Khi bị tụt huyết áp, cảm lạnh có thể pha với nước gừng ấm để uống.
Gừng khô
Gừng khô hay còn được gọi là can khương, có vị cay, mùi thơm hắc, tính nóng, trong đông y là một vị thuốc ôn trung (chữa bệnh về dạ dày) và hồi dương. Đồng thời có tác dụng cầm máu, chỉ ho. Can khương chữa đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, tả, chân tay giá lạnh, mạch nhỏ, đàm ẩm, ho suyễn và thấp khớp.
Cách dùng:
Chữa tỳ vị hư yếu, ăn uống kém: Can khương tán bột ra 4 lượng kẹo mạch nha, xắt lát rửa qua nấu cho tan ra, viên bằng hạt ngô đồng, uống lúc đói với cơm, ngày 30 viên.
Đau bụng do hàn lạnh: Can khương Truật, Phục linh, Nhân sâm, Cam thảo.
Hạ huyết do trường tích: Can khương, Hoàng kỳ, Cam thảo, Bạch thương, Mạch môn, Sinh địa, Nhân sâm, Thăng ma.
Trúng ác khí: Can khương, Quất bì, Sa nhân, Hoắc hương, Tô mộc, Mộc hương, Bỏ Mộc hương gia, Mộc qua trị được sình bụng do trúng ác khí.
Nôn mửa do vị hư: Can khương, Quất bì, Nhân sâm.
Sốt rét có đàm (Đàm ngược) lâu ngày không khỏi: Can khương, Quất bì, Truật, Bối mấu, Phục linh.
Sốt rét do hàn (hàn ngược): Can khương, Nhân sâm, Truật, Quế chi, Quất bì.
Ỉa chảy do hư hàn, trúng hàn: Can khương, Nhân sâm, Truật, Cam thảo.
Trị nôn mửa thuộc hư hàn: Can khương, Nhân sâm, Bán hạ, các vị bằng nhau, tán bột, trộn nước gừng làm viên, mỗi lần uống 6-9g, ngày 3 lần (Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phụ nữ băng huyết: Can khương 6g, Tông bì và Ô mai đều 9g. Tất cả đốt cháy đen tán bột uống (Như Thánh Tán- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Kiêng kỵ: Can khương vị đại cay nên người âm hư có nhiệt, có thai không nên dùng.
Gừng sao khô
Củ gừng đồ cho chín rồi để trong mát cho đến khô, sao lửa to cho xém đen gọi là can bào khương. Bào khương có vị cay, đắng, tính đại nhiệt, có tac dụng làm ấm Tỳ và Vị, trừ hàn. Phòng dương suy, làm ấm phế và trừ đàm thấp.
Cách dùng:
Nôn mửa do vị hàn Sinh đàm: Bào khương 2 chỉ rưỡi. Chích thảo 1 chỉ 2 phân. Dùng 1 chén rưỡi nước sắc còn phân nửa uống.
Sốt rét có tỳ hàn: Bào khương tán bột khi cần dùng uống 3 chỉ với rượu nóng. Dùng Can khương, Quế chi và Tử tô có thể ấm bên trong mà làm cho ra mồ hôi.
Trị mửa ra máu, ỉa ra máu, băng huyết do hư hàn: Bào khương tán bột, mỗi lần uống 2-4g với nước nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ỉa chảy do hàn: Bào khương 1 lượng đâm sao cho nóng đắp trên bụng đến Đơn điền (Dưới rốn đắp 1 vùng đường kính chừng 2-5cm). Dùng vải rịt lên chừng 1-2 giờ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Gừng sao cháy
Gừng sao cháy hay Thán khương được chế biến bằng cách thái lát dày gừng khô, sao cháy đen tồn tính.Thán khương có vị cay, mùi thơm hắc, tính ấm.
Công dụng: Thán khương chữa đau bụng lạnh, máu hàn, tay chân lạnh, nhức mỏi, tê bại, băng huyết.
Cách dùng:
Trị mửa ra máu, ỉa ra máu, băng huyết do hư hàn: Dùng Can khương (đốt cháy đen tồn tính) đem tán bột, uống mỗi lần 2-4g với nước nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị nôn ra máu không cầm thuộc hư hàn: Khương thán (gừng đốt cháy) và Cam thảo đều 6g. Sắc uống với đồng tiện (Can Khương Cam Thảo Thang-Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Ngoài các vị thuốc trên, nhân dân cũng sử dụng vỏ gừng, lá gừng làm thuốc trong dân gian. Vỏ gừng có vị cay, tính mát chữa phù thũng. Là vỏ củ gừng phơi khô, cùng bốn loại vỏ khác như trần bì (vỏ quýt), phục linh bì (vỏ nấm phục linh), đại phúc bì (vỏ cau), ngũ gia bì (vỏ cây chân chim). Phối thành thang ngũ bì ẩm nổi tiếng chuyên chữa phù thũng có thể dùng được cho cả phụ nữ có thai bị sưng hai chân. Ngoài ra, lá gừng bọc thức ăn còn giúp ngừa ôi thiu.
Để đạt được hiệu quả khi sử dụng các bài thuốc làm từ gừng, người bệnh nên tham vấn ý kiến thầy thuốc đông y hoặc những người có chuyên môn.