| Nàng nàng: Vị thuốc Đông y giúp hành huyết, trục ứ Toàn yết – Vị thuốc "độc mà quý" trong Đông y | 
![]()  |   		
| Đậu mèo có tên gọi khác như đao đậu tử, đậu rựa, mắt mèo , đậu ngứa, đậu mèo lông bạc,... | 
Đậu mèo là gì?
Đậu mèo ngoài được coi như sắn dây rừng thì còn có tên gọi khác như đao đậu tử, đậu rựa, mắt mèo , đậu ngứa, đậu mèo lông bạc, đậu mèo leo, móc mèo,… Tên khoa học là Mucuna cochinchinensis hoặc Mucuna pruriens (L.) DC.
Tên dược liệu là Semen Mucunae Cochinchinensis, thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm sinh trưởng của đậu mèo
Theo nhiều nghiên cứu, đậu mèo có nguồn gốc ở Ấn Độ. Hiện nay, cây đã được phổ biến và phân bố rải rác nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt vùng nhiều đới Đông Nam Á và Nam Á như Lào, Nhật Bản, Campuchia,… Ở Việt Nam, loài thực vật này mọc hoang ở các tỉnh miền núi, đặc biệt từ Quảng Bình trở ra, thường mọc leo vào những cây cỏ hoặc cây bụi cao. Ta sẽ thường thấy nó mọc hoang dại ở ven rừng, ở đồi hay nương rẫy bỏ hoang, ít được trồng do lông của loài này gây ngứa da khi chạm vào.
Thuộc nhóm ưa sáng, ra hoa nhiều, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt.
Khoảng 5 tháng tính từ khi mọc đến khi tàn, được cho là vòng đời của cây.
Bên cạnh đó, nhân dân miền núi còn trồng cây để chống xói mòn đất và phủ xanh đồi núi trọc, nhờ đặc điểm sống khỏe và dai của nó.
Mô tả toàn bộ cây đậu mèo
Thuộc thân mềm, thuộc loại dây leo quấn dài, sống hằng năm. Thân cành phủ lông mềm trắng hoặc vàng, áp sát nhau. Bên ngoài thân có nhiều khía rãnh dọc.
Lá kép mọc so le, có 3 lá chét dài kích thước 7-12cm, rộng 5-8 cm, đầu nhọn. Phiến lá có 2 mặt không giống nhau, phía dưới có lông trắng phủ, còn mặt trên thì nhẵn, có 9 đôi gân. Lá chét 2 bên hình tam giác còn ở giữa thì hình trái xoan. Cuống chung dài 8-12cm.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm dài khoảng 30 cm, thường rũ xuống. Lá bắc và lá bắc con hình mác. Hoa màu tím sẫm hoặc xanh nhạt, đài có răng tam giác nhọn, có lông ở mặt ngoài. Tràng có cánh rộng, nhị 2. Cuống hoa có kích thước to và dài khoảng 5 mm.
Quả dạng đậu, cong hình chữ S, chiều ngang 1,3cm và dài 12cm, được phủ lông trắng hoặc hung vàng, một số cây gây ngứa da khi chạm vào. Mỗi quả chứa trung bình 5 hạt hình trứng, chiều dài từ 1,2 – 15cm.
Thời điểm thích hợp là từ tháng 7 – 11 ra hoa và tháng 11 – 12 hằng năm ra quả.
![]()  |   		
| Đậu mèo thuộc thân mềm, thuộc loại dây leo quấn dài, sống hằng năm | 
Thành phần hóa học
Đậu mèo rừng là một loại cây đặc biệt. Một mặt, nó là một nguồn thực phẩm tốt vì giàu protein thô, acid béo thiết yếu, hàm lượng tinh bột và một số acid amin thiết yếu. Mặt khác, nó cũng chứa nhiều yếu tố kháng dinh dưỡng khác nhau, chẳng hạn như chất ức chế protease, tổng số phenolic, oligosaccharide (raffinose, stachyose, verbascose) và một số cyclitol có tác dụng chống bệnh tiểu đường.
Yếu tố kháng dinh dưỡng và độc tố
Ngoài hàm lượng acid amin chứa lưu huỳnh thấp trong hạt đậu mèo rừng, sự hiện diện của các yếu tố chống sinh lý và độc tố có thể góp phần làm giảm chất lượng dinh dưỡng tổng thể của chúng. Những yếu tố này bao gồm polyphenol, chất ức chế trypsin, phytate, glycoside cyanogen, oligosaccharide, saponin, lectin và alkaloid. Polyphenol (hoặc tanin) có thể liên kết với protein, do đó làm giảm khả năng tiêu hóa của chúng. Các hợp chất phenolic ức chế hoạt động của các enzym tiêu hóa cũng như thủy phân như amylase, trypsin, chymotrypsin và lipase.
Hydro xyanua (HCN) được biết là gây ra cả độc tính cấp tính và mãn tính, nhưng hàm lượng HCN trong hạt đậu mèo rừng thấp hơn nhiều so với mức gây chết người.
Các thành phần hoạt tính
Acid béo: Acid linoleic rõ ràng là acid béo chiếm ưu thế, tiếp theo là acid palmitic, oleic và linolenic.
Oligosaccharide: Các nhà khoa học đã nghiên cứu nồng độ oligosaccharide trong hạt, và verbascose được báo cáo là oligosaccharide chính trong đó.
Hợp chất phenolic: Thành phần phenolic chính của đậu mèo rừng được tìm thấy là L-dopa (5%), cùng với một lượng nhỏ tetrahydroisoquinolin đã methyl hóa và không methyl hóa (0,25%). Tuy nhiên, ngoài L-dopa, các hợp chất 5-indole, hai trong số đó được xác định là tryptamine và 5-hydroxytryptamine, cũng được báo cáo trong chiết xuất hạt Đậu mèo rừng.
Alkaloid: Mucunine, mucunadine, prurienine, và prurieninine là bốn alkaloid đã được phân lập từ chiết xuất hạt.
Tác dụng và công dụng của đậu mèo
Tác dụng
- Chống nhiễm độc nọc rắn
Đậu mèo rừng đã được chứng minh là có hoạt tính chống lại nọc độc của rắn và thực tế, hạt của nó được sử dụng trong y học cổ truyền để ngăn chặn tác dụng độc hại của rắn cắn, chủ yếu do các độc tố mạnh như độc tố thần kinh, độc tố tim, độc tố tế bào, phospholipase A2 (PLA2), và protease. Chiết xuất nước từ hạt bảo vệ chuột chống lại các tác động độc hại của nọc độc Echis carinatus thông qua cơ chế miễn dịch.
- Bảo vệ thần kinh
Ở Ấn Độ, hạt của đậu mèo rừng theo truyền thống đã được sử dụng như một loại thuốc bổ thần kinh và như một loại thuốc kích thích tình dục cho nam giới. Hạt bột có đặc tính chống bệnh parkinson, có thể là do sự hiện diện của L-dopa (tiền chất của chất dẫn truyền thần kinh dopamin). L-Dopa, tiền chất của dopamin, có thể vượt qua hàng rào máu não và trải qua quá trình chuyển đổi thành dopamin, phục hồi dẫn truyền thần kinh. Chiết xuất n-propanol của hạt đậu mèo rừng mang lại phản ứng cao nhất trong thử nghiệm bảo vệ thần kinh liên quan đến sự phát triển và sống sót của tế bào thần kinh DA trong môi trường nuôi cấy.
- Các tác dụng khác
Chống tiểu đường: Hạt đậu mèo rừng dùng với liều 500 mg/kg làm giảm nồng độ glucose huyết tương; rất có thể là do d-chiro-inositol và các dẫn xuất galacto của nó.
Chống oxy hóa: Chiết xuất ethylacetate và metanol của toàn bộ cây đậu mèo rừng chứa một lượng lớn hợp chất phenolic, thể hiện hoạt tính chống oxy hóa và thu hồi gốc tự do cao.
Điều trị da: Các tế bào sừng của con người được điều trị bằng chiết xuất metanol từ lá thể hiện sự điều hòa giảm biểu hiện tổng số protein. Ngoài ra, điều trị bằng Đậu mèo rừng làm giảm đáng kể mức cơ bản của 4-hydroxynonenal có trong tế bào sừng của con người.
Công dụng theo Y học cổ truyền
Lông ngứa của cây khi chạm vào người sẽ gây mẩn ngứa khó chịu, dính vào mắt sẽ gây đau mắt nguy hiểm. Hạt có tác dụng tẩy xổ, sát trùng và giải độc.
Trong đông y, đậu mèo rừng được dùng trong trị rắn cắn, trị giun đũa và tẩy xổ.
Các bài thuốc từ cây đậu mèo
Cách chế biến đậu mèo trị giun đũa
Dùng hạt đậu mèo rừng, nghiền nhỏ, trộn với mật ong hoặc siro làm thành thuốc dẻo ngọt, ăn trong 4 - 5 ngày với liều 15g cho người lớn và 4g cho trẻ em.
Trị rắn độc cắn
Dùng hạt đậu mèo rừng bổ làm đôi, đắp lên vết rắn cắn giúp hút nọc độc ra ngoài.


									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
			
			
			
			
			