Xuất khẩu thép tăng trưởng trở lại trong tháng 5 Xuất khẩu thép 6 tháng đầu năm đạt hơn 3,4 triệu tấn, tăng gần 85% Xuất khẩu thép phục hồi mạnh mẽ |
Xuất khẩu thép đối mặt với hai rào cản lớn
Xuất khẩu sang thị trường EU phải đối mặt với hai rào cản lớn, đó là các biện pháp tự vệ và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). |
Theo số liệu Tổng cục Hải quan, trong năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu trên 2,5 triệu tấn các mặt hàng thép sang thị trường này, tăng gấp đôi so với năm 2022. Lượng thép xuất khẩu sang thị trường EU chiếm 23% tổng lượng thép xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2023. Kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) có hiệu lực (từ tháng 8/2020), thị trường thép Việt Nam đã liên tục mở rộng thị phần và EU hiện là một trong các thị trường xuất khẩu chính của ngành thép Việt Nam.
Báo cáo Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 2 tháng đầu năm nay, xuất khẩu sắt thép đạt 1,5 tỷ USD. Mặc dù tính riêng trong tháng 2, xuất khẩu sắt thép giảm ở mức thấp nhất trong 3 tháng qua, ước đạt 950 nghìn tấn, với trị giá 678 triệu USD, giảm 18,1% về lượng và 17,6% về trị giá so với tháng trước. Song, so với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu mặt hàng này tăng 19,3% về lượng và 12,6% về trị giá.
Nhìn nhận về xuất khẩu thép, Tiến sỹ Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) cho rằng, sự đóng góp của ngành thép trong hoạt động xuất khẩu đã góp phần vào việc xuất siêu của Việt Nam trong bối cảnh nhiều khó khăn của thương mại quốc tế toàn cầu thời gian qua.
"Trong bối cảnh khó khăn về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, nhưng riêng thị trường EU vẫn duy trì được thặng dư thương mại mặc dù bối cảnh giảm hoạt động xuất nhập khẩu chung của toàn cầu cũng như cả nước, trong đó đóng góp tích cực là các mặt hàng như sắt thép," ông Nguyễn Văn Hội chia sẻ.
Mặc dù đạt kết quả xuất khẩu cao trong năm vừa qua, song từ giữa năm 2023 và nhất là từ năm 2024 trở đi, xuất khẩu thép sang thị trường EU phải đối mặt với nhiều thách thức có thể tác động tới xuất khẩu của ngành.
Ông Phạm Công Thảo, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel) thông tin, lượng thép xuất khẩu sang thị trường EU chiếm 23% tổng lượng thép xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2023. Tuy vậy, từ giữa năm 2023, xuất khẩu sang thị trường EU phải đối mặt với hai rào cản lớn, đó là các biện pháp tự vệ và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM).
Rào cản đầu tiên đến từ các biện pháp tự vệ đối với mặt hàng thép nhập khẩu khi Quy định mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2023 của EU sẽ tiếp tục duy trì biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU đến 30/6/2024. Việt Nam để được miễn thuế tự vệ sẽ phải duy trì tỷ trọng xuất khẩu ở dưới mức 3% tổng kim ngạch EU nhập nhẩu đối với từng loại sản phẩm, nếu vượt hạn ngạch, mức thuế nhập khẩu phải nộp cho phần vượt là 25%.
Rào cản thứ hai là cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). CBAM sẽ hướng tới việc đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc EU, dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất nước sở tại. Hiện tại cơ chế này đang ở giai đoạn 1 khi các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có các doanh nghiệp thép phải khai báo mức phát thải. Tuy vậy trong tương lai, khi cơ chế CBAM bước vào các giai đoạn tiếp theo, các doanh nghiệp thép trong đó có Việt Nam bắt buộc phải mua chứng chỉ phát thải CBAM từ năm 2026 sẽ làm gia tăng chi phí, khó cạnh tranh về mặt giá trị nếu các doanh nghiệp không lên kế hoạch giảm lượng khí thải carbon trong sản xuất. Theo ước tính của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), lĩnh vực thép có khả năng sẽ giảm khoảng 4% giá trị xuất khẩu dưới tác động của CBAM. Nhu cầu giảm kéo theo sản lượng giảm khoảng 0,8%, cùng với tác động bất lợi về khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Liên quan đến rào cản thứ hai là cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), theo ông Phạm Công Thảo, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel), CBAM sẽ hướng tới việc đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc EU, dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất nước sở tại.
“Hiện tại cơ chế này đang ở giai đoạn 1 khi các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có các doanh nghiệp thép phải khai báo mức phát thải. Tuy vậy trong tương lai, khi cơ chế CBAM bước vào các giai đoạn tiếp theo, các doanh nghiệp thép trong đó có Việt Nam bắt buộc phải mua chứng chỉ phát thải CBAM từ năm 2026 sẽ làm gia tăng chi phí, khó cạnh tranh về mặt giá trị nếu các doanh nghiệp không lên kế hoạch giảm lượng khí thải carbon trong sản xuất,” ông Phạm Công Thảo chỉ ra.
Cơ hội cho doanh nghiệp thép nâng cao chất lượng sản phẩm
Cùng với quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế xanh, phát triển năng lượng xanh, sản xuất xanh thì đây là cơ hội cho các doanh nghiệp thép Việt Nam nâng cao chất lượng. |
Ngành thép Việt Nam hiện đứng thứ 14 về xuất khẩu ra thế giới, với hơn 30 thị trường nhập khẩu thép Việt Nam; khoảng 25-30% sản lượng thép xuất khẩu của Việt Nam là sang thị trường Liên minh châu Âu (EU), chiếm khoảng 16% thị phần thép xuất khẩu vào thị trường này mỗi năm.
Tuy vậy, từ đầu năm 2024 nay, việc xuất khẩu thép vào EU sẽ phải tuân thủ một số quy định mới, bao gồm các biện pháp tự vệ đối với thép nhập khẩu cũng như chuẩn bị áp dụng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) là những thách thức lớn buộc ngành thép phải vượt qua khi xuất khẩu vào thị trường này.
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam đã và sẽ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa bảo hộ của các nước và các yêu cầu về phát thải carbon. Tính từ năm 2004, ngoại trừ các chính sách phòng vệ của các nước mà Việt Nam không phải đối tượng, đã có hơn 70 vụ việc điều tra có tác động đến thép xuất khẩu từ Việt Nam như chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống lẩn tránh...
Bên cạnh đó, cạnh tranh về giá thép thành phẩm nội địa năm 2024 ngày càng trở khốc liệt hơn trong những năm gần đây và cũng như những năm tới do công suất sản xuất nhiều sản phẩm vượt xa nhu cầu nội địa; ngoài ra thị trường trong nước còn chịu áp lực lớn hơn từ thép nhập khẩu, đặc biệt là thép có nguồn gốc Trung Quốc và ASEAN. Ngoài ra, trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế toàn cầu, thị trường thép xuất khẩu của Việt Nam cũng đối mặt với thách thức bị thu hẹp dẫn tới hệ lụy các doanh nghiệp không xuất khẩu được sẽ quay trở lại tăng cường bán hàng tại thị trường trong nước, làm cho áp lực cạnh tranh ngày càng lớn.
Nhiều chuyên gia cho rằng, tác động của CBAM đối với hoạt động xuất khẩu thép của Việt Nam sang thị trường EU rõ ràng là một thách thức không nhỏ, nếu xét về ngắn và trung hạn. Tuy nhiên, về dài hạn, cùng với quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế xanh, phát triển năng lượng xanh, sản xuất xanh thì đây là cơ hội cho các doanh nghiệp thép Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và phát triển bền vững
Bên cạnh việc đề nghị Chính phủ tiếp tục có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác phòng vệ thương mại để hạn chế thép giá rẻ, chất lượng kém làm ảnh hưởng tới thị trường, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước, Hiệp hội Thép Việt Nam kiến nghị Chính phủ cần có các biện pháp và hỗ trợ về tài chính để khuyến khích các nhà sản xuất thép nâng cấp các kỹ thuật sản xuất nhằm giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon, đồng thời loại bỏ dần năng lực sản xuất lạc hậu.
Theo ông Đinh Quốc Thái - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội thép Việt Nam, các doanh nghiệp thép của Việt Nam đã và đang nỗ lực chuyển đổi công nghệ đối với cả công nghệ lò cao và lò điện để đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu.
Cụ thể, đối với loại công nghệ sản xuất thép lò cao và lò thổi, Hiệp hội đề xuất các doanh nghiệp tiếp tục cải tiến công nghệ để giảm tiêu hao nguyên liệu và năng lượng để giảm bớt các phát thải khí nhà kính, trong đó nhiều nhà máy đã áp dụng công nghệ xử lý chất thải để phát điện hay sử dụng công nghệ đúc cán trực tiếp để tiết kiệm nhiệt lò nung... Điều này cũng đã đem lại hiệu quả rất lớn cho việc tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải.
Đối với công nghệ lò điện, sau khi cải thiện đến năm 2025 sẽ đạt mức độ phát thải tối ưu; đến năm 2035 dần sử dụng năng lượng Xanh như năng lượng áp mái, điện tái tạo cũng như thay đổi dần dần một số các quy trình công nghệ mới để giảm phát thải... Dự báo của Hiệp hội Thép thế giới cho thấy nhu cầu thép thành phẩm năm 2024 tăng trưởng khoảng 1,9% so với năm 2023, trong đó nhu cầu tiêu thụ thép của khu vực châu Âu tăng trưởng 5,7% (đây cũng là một trong những thị trường xuất khẩu thép lớn nhất của Việt Nam).
Trong nước, theo đánh giá của Hiệp hội Thép Việt Nam, ngành thép có khả năng phục hồi nhẹ trong năm 2024, với lượng tiêu thụ thép được dự báo tăng 7% lên 21,7 triệu tấn, sản lượng có thể đạt gần 29 triệu tấn, tăng 7% so với năm 2023. Bên cạnh việc đề nghị Chính phủ tiếp tục có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác phòng vệ thương mại để hạn chế thép giá rẻ, chất lượng kém làm ảnh hưởng tới thị trường, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước, Hiệp hội Thép Việt Nam kiến nghị Chính phủ cần có các biện pháp và hỗ trợ về tài chính để khuyến khích các nhà sản xuất thép nâng cấp các kỹ thuật sản xuất nhằm giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon, đồng thời loại bỏ dần năng lực sản xuất lạc hậu.
Dưới góc độ quản lý nhà nước về lĩnh vực thép, dưới tác động của các hàng rào kỹ thuật và cơ chế CBAM khi xuất khẩu thép vào EU, ông Đỗ Nam Bình, Trưởng phòng Khoáng sản và Luyện kim, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) khuyến nghị các doanh nghiệp thép cần tiếp tục tuân thủ các quy định của pháp luật như Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 06/2022/NĐ-CP, Quyết định 01/2022/QĐ-TTg, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu... và cam kết của Việt Nam tại COP26.
Mặt khác, doanh nghiệp cần tối ưu hóa công nghệ, tiết kiệm năng lượng, Chuyển đổi Số, ứng dụng công nghệ giảm phát thải carbon để phát điện nhiệt dư, đồng thời thực hiện việc công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo quy định của pháp luật về quản lý chất lượng hàng hóa, thống nhất hệ thống quản lý mã số hàng hóa xuất nhập khẩu (HS Code) với cơ quan quản lý xuất nhập khẩu để sẵn sàng thực hiện CBAM./.
Ngoài ra, Chính phủ có định hướng chiến lược để ngành thép phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, đồng thời có các biện pháp và hỗ trợ về tài chính để khuyến khích các nhà sản xuất thép nâng cấp các kỹ thuật sản xuất nhằm giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon, cũng như loại bỏ dần năng lực sản xuất kém hiệu quả và lạc hậu.