Nhìn thẳng thực tế
Ngày 30/6, Ủy ban châu Âu (EC) đã chính thức thông báo Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA), ký kết ngày 30/6/2019, sẽ có hiệu lực từ ngày 1/8 tới.
Cũng trong ngày 30/6, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 102/2020/QH14 phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu.
Việt Nam với hơn 3.400 km bờ biển và có gần một nửa số tỉnh, thành phố nằm ở ven biển, vận tải biển và hệ thống cảng biển nước ta luôn được nhìn nhận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động vận chuyển hàng hóa và phát triển kinh tế đất nước.
Ngành hàng hải tận dụng cơ hội từ EVFTA để bứt phá
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, khi EVFTA có hiệu lực, dự kiến, xuất khẩu ngành thủy sản từ Việt Nam vào EU sẽ tăng trung bình 2%/năm, nhập khẩu từ EU có thể trong khoảng 2,8 - 5% trong giai đoạn 2020 - 2030. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU tăng nhanh khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có Hiệp định.
Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam đánh giá, việc Quốc hội chính thức thông qua và phê chuẩn EVFTA sẽ mang lại cơ hội lớn đối với hoạt động hàng hải.
Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế nhìn nhận, để phát huy cơ hội này, điều kiện trước tiên là cần có đội tàu và hệ thống cảng biển đủ mạnh.
Đại diện Cục Hàng hải Việt Nam đánh giá, cơ cấu đội tàu biển Việt Nam trong thời gian qua đã có bước cải thiện đáng kể, đội tàu phát triển theo hướng chuyên dụng hóa, đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa trong nước. Cụ thể, đội tàu container Việt Nam tăng trưởng khá tốt với mức tăng bình quân khoảng 20%/năm. Hiện đội tàu container của Việt Nam là 41 tàu.
Tuy vậy, các chuyên gia kinh tế cho rằng, đội tàu biển này mới chỉ đáp ứng được nhu cầu vận tải nội địa và vận tải hàng feeder (dịch vụ tàu gom hàng) tại một số nước trong khu vực, chưa tăng được thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu.
Về hệ thống cảng biển, thống kê từ Cục Hàng hải Việt Nam cho thấy, nước ta đã có 32 cảng chính đáp ứng đủ năng lực thông qua hàng hóa hiện nay. Ước tính trung bình mỗi năm, hệ thống cảng biển của cả nước đảm nhận thông qua từ 550 - 570 triệu tấn hàng hóa. Tuy nhiên, bất cập lớn nhất của vận tải biển hiện nay là giao thông kết nối giữa hệ thống cảng biển với phương thức vận tải khác như đường bộ, đường sắt.
Trong khi đó, cả nước mới chỉ có 2 cảng nước sâu là cảng Lạch Huyện ở Hải Phòng và cảng Cái Mép Thị Vải, ở Bà Rịa - Vũng Tàu... có thể đón tàu quốc tế lớn nhưng quy mô và năng lực vận chuyển vẫn còn nhiều hạn chế.
Cơ hội song hành cùng thách thức
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, năng lực hiện có và xu thế tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ vận tải hàng hải quốc tế đã và sẽ gây áp lực cạnh tranh ngày càng lớn trên những tuyến Quốc tế đối với các hãng tàu Việt Nam. Cùng với đó, ngành vận tải biển trên thế giới cũng đang ở giai đoạn khó khăn với nhiều hãng tàu lớn phá sản hoặc làm ăn cầm chừng.
Tuy nhiên, trong khó khăn cũng có cả những cơ hội. Vận tải biển là lĩnh vực dịch vụ sẽ hưởng các tác động tích cực dù gián tiếp từ EVFTA. Với cam kết trong EVFTA thương mại hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước thuộc EU được dự báo sẽ tăng lên đáng kể. Trong khi đó, có tới 90% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam qua đường biển. Điều này kéo theo tỷ trọng hàng hóa các tuyến vận tải biển Bắc - Nam và Đông - Tây chắc chắn gia tăng.
Từ những phân tích trên, nhằm nâng cao hiệu quả vận tải biển và tăng sức cạnh tranh, các chuyên gia kinh tế cho rằng, trước mắt ngành vận tải biển Việt Nam cần tập trung vấn đề minh bạch trong cung cấp dịch vụ và giá thành. Cụ thể là nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra mức chi phí vận tải hợp lý nhất đồng thời nghiên cứu xây dựng một số cơ chế chính sách hỗ trợ các tàu thuyền, tàu container có trọng tải lên đến 20.000 TEUs được phép vào các cảng nước sâu và cắt giảm một số thủ tục không cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy thương mại.
Cảng Cái Mép Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu
Theo đại diện Cục Hàng hải Việt Nam ngay từ khi Việt Nam đang xúc tiến ký Hiệp định EVFTA, Cục đã chủ động nghiên cứu, rà soát lại hệ thống cảng biển của Việt Nam, xây dựng một số đề án nâng cao hiệu quả khai thác của các cảng biển; trong đó có hai cảng nước sâu, cảng Cái Mép-Thị Vải và cảng Lạch Huyện.
Bên cạnh đó, Cục cũng đang nghiên cứu xây dựng một số cơ chế chính sách hỗ trợ các tàu thuyền, tàu container có trọng tải lên đến 20.000 TEUs được phép vào các cảng nước sâu và cắt giảm một số thủ tục không cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy thương mại.
Để tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước EU khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, theo ông Hồ Kim Lân, Tổng thư ký Hiệp hội cảng biển Việt Nam, vấn đề bây giờ là chuẩn bị tăng năng suất khai thác bằng cách trang bị thêm các phương tiện làm hàng tại các cảng nước sâu như cảng Cái Mép-Thị Vải và cảng Lạch Huyện. Bên cạnh đó, tìm thêm phương án để phát triển các cảng biển và các dịch vụ hỗ trợ cho cảng biển khai thác như dịch vụ logistics.
Về định hướng lâu dài, đại diện một số doanh nghiệp vận tải biển chia sẻ, hướng đi rõ ràng nhất để khắc phục những hạn chế trong vận tải biển và thương mại quốc tế là hợp tác cải thiện hiệu suất, hiện đại hóa đội tàu và các cảng biển, tranh thủ đầu tư quốc tế cho nâng cấp cơ sở hạ tầng liên tuyến, liên khu vực, nhằm khắc phục sự bất lợi mang tính hệ thống trong tuyến Bắc - Nam.
Tuy nhiên, theo chia sẻ của các doanh nghiệp vận tải biển và các chuyên gia kinh tế, việc khắc phục bất hợp lý trong cơ cấu đội tàu gắn với hiện đại hóa đội tàu hoàn toàn không đơn giản, cần phải được tính toán kỹ lưỡng, cẩn trọng.
Theo chia sẻ của đại diện Cục Hàng hải Việt Nam thời gian tới, Cục sẽ tham mưu Bộ Giao thông Vận tải xây dựng quy hoạch cảng biển giai đoạn 2021 - 2030, khắc phục những hạn chế trong các thời kỳ trước đây, lựa chọn những nhà đầu tư có đủ tiềm lực phát triển cảng biển hiện đại.
Minh Kiệt