| Sâm Ngọc Linh: đánh thức "kho vàng xanh" giữa đại ngàn HTX Dược liệu Cao Cà Gai Leo Duy Anh: Hành trình gây dựng thương hiệu OCOP từ vùng đất Đông Sơn |
![]() |
| Hiện cả nước có khoảng 60 - 70 vùng trồng dược liệu tập trung đạt chứng nhận GACP - WHO. |
Tiềm năng phong phú, thách thức hiện hữu
Theo thống kê của ngành Y tế, nhu cầu dược liệu hằng năm tại Việt Nam dao động ở mức 80.000 - 100.000 tấn. Điều đáng lưu tâm là có đến gần 70% lượng dược liệu này phải nhập khẩu. Thực trạng này đặt ra một bài toán lớn cho ngành, nhất là khi Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi một nguồn tài nguyên cây thuốc vô cùng phong phú và đa dạng, với hơn 5.000 loài cây thuốc đã được biết đến.
Sự đa dạng này không chỉ là nguồn nguyên liệu quý giá có thể khai thác trong tự nhiên mà còn có tiềm năng lớn để trồng và chủ động nguồn cung. Thêm vào đó, kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là một lợi thế truyền thống không thể phủ nhận.
Mặc dù sở hữu tiềm năng lớn, nhưng ngành dược liệu Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước một cách bền vững. Một trong những nguyên nhân chính là thị trường ngày càng mở rộng nhưng lại chưa hình thành được nhiều vùng nguyên liệu lớn, ổn định và bền vững.
Bên cạnh đó, việc khai thác quá mức và thiếu kiểm soát cũng đang làm suy giảm nguồn dược liệu tự nhiên. Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Tập - Nguyên Trưởng Khoa Tài nguyên Dược liệu, Viện Dược liệu, do khai thác liên tục trong nhiều năm, thiếu chú ý bảo vệ tái sinh, cùng với nạn phá rừng và thu hẹp vùng phân bố tự nhiên, nguồn cây thuốc tự nhiên bị suy giảm mạnh. Nhiều loài trước kia có thể khai thác hàng chục đến hàng trăm tấn mỗi năm (như Ba kích, Hoàng tinh, Vàng đắng, Hoàng đằng, Bình vôi,...) nay đã mất khả năng khai thác lớn và trở nên hiếm dần.
Đặc biệt nghiêm trọng hơn, nhiều loài vốn hiếm gặp lại bị tìm kiếm và khai thác để sử dụng hay xuất khẩu lậu qua biên giới, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cao trong tự nhiên, đơn cử như các loài Sâm ngọc linh, Sâm Lai Châu, Tam thất hoang, Hoàng liên, Bảy lá một hoa,... Theo ước tính, số loài cây thuốc bị đe dọa tuyệt chủng và suy giảm nghiêm trọng trong tự nhiên cần bảo tồn ở Việt Nam tính đến nay đã lên tới khoảng 155 đến 160 loài.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển ngành dược liệu nội địa, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thúc đẩy lĩnh vực này. Điển hình là Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu Việt Nam đến năm 2030 được ban hành từ năm 2013.
Gần đây hơn, Quyết định số 1976/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy hoạch phát triển với mục tiêu xây dựng và mở rộng các vùng trồng nguyên liệu tập trung. Cùng với đó, Quyết định số 1719/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã góp phần thu hút đầu tư, tạo sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân thông qua phát triển vùng trồng dược liệu ổn định, quy mô lớn và bền vững. Công tác phát triển dược liệu nhờ vậy đã từng bước được chú trọng, tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận.
Nâng tầm chất lượng và thương hiệu “Dược liệu Việt Nam”
![]() |
| Sơ chế dược liệu tại một doanh nghiệp. |
Để giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, đồng thời khai thác hiệu quả tiềm năng tài nguyên và bảo tồn nguồn gen quý, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tập trung vào chất lượng, thương hiệu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải đẩy mạnh xây dựng các vùng khai thác bền vững và vùng trồng dược liệu tập trung, áp dụng kỹ thuật theo tiêu chuẩn GACP (Thực hành Tốt Trồng trọt và Thu hái) hoặc hữu cơ nhằm bảo đảm chất lượng.
Theo PGS. TS Phạm Thanh Huyền - Giám đốc Trung tâm Tài nguyên Dược liệu, Viện Dược liệu, hiện cả nước có khoảng 60 - 70 vùng trồng dược liệu tập trung đạt chứng nhận GACP - WHO. Các vùng này được lựa chọn kỹ lưỡng dựa trên đặc điểm thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước và tiềm năng phát triển dược liệu sạch, phân bố chủ yếu ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Quy trình giám sát và duy trì tiêu chuẩn GACP - WHO rất chặt chẽ, bao gồm nhiều bước từ lựa chọn giống, đất trồng, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh, thu hái đúng giai đoạn, đến bảo quản và sơ chế. Sự kiểm soát này giúp các vùng nguyên liệu duy trì chất lượng ổn định, an toàn, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và xây dựng uy tín cho dược liệu Việt Nam.
Việc ứng dụng khoa học - công nghệ trong canh tác, xây dựng vùng trồng đặc trưng theo vùng miền (như Tây Bắc với sâm Lai Châu, Tây Nguyên với sâm Ngọc Linh) sẽ tạo lợi thế cạnh tranh. Cần tăng cường nghiên cứu giống, ứng dụng công nghệ sinh học để nâng cao chất lượng và chủ động nguồn giống, đồng thời phát triển các chuỗi liên kết nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp - nhà khoa học nhằm bảo đảm đầu ra ổn định và gia tăng giá trị.
Viện Dược liệu, với vai trò là đơn vị nghiên cứu toàn diện, đã và đang nỗ lực trong việc nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên. Viện đã chuyển giao các quy trình công nghệ cho 30 doanh nghiệp tại 25 tỉnh/thành phố trên cả nước và đang triển khai ở 5 vườn cây thuốc lớn.
Để nâng cao giá trị thương hiệu "Dược liệu Việt Nam" trên thị trường khu vực và quốc tế, PGS.TS Phạm Thanh Huyền nhấn mạnh cần tập trung vào nguồn gốc và chất lượng. Cần ưu tiên khai thác và phát triển các nguồn gen bản địa có giá trị y tế và kinh tế cao, đồng thời bảo đảm dược liệu được khai thác bền vững, trồng và thu hái theo chuẩn GACP - WHO để tạo niềm tin.
Song song đó, cần đẩy mạnh chế biến sâu để tạo ra các sản phẩm giá trị gia tăng, phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế như: tinh dầu, cao dược liệu, trà thảo mộc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thuốc từ dược liệu. Truy xuất nguồn gốc và minh bạch chuỗi cung ứng là yếu tố quan trọng để chứng minh xuất xứ và tăng sức cạnh tranh.
Một yếu tố khác tạo nên sự khác biệt là xây dựng câu chuyện thương hiệu gắn với văn hóa bản địa, truyền thống y học cổ truyền Việt Nam. Cuối cùng, cần đẩy mạnh truyền thông, xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ quốc tế và tăng cường liên kết giữa các bên để phát triển bền vững, chính thức nâng tầm thương hiệu "Dược liệu Việt Nam" trên thị trường quốc tế.
Các chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu khi được thực hiện đồng bộ sẽ tạo động lực lớn, giúp Việt Nam nâng cao tỷ lệ dược liệu sản xuất nội địa, giảm nhập khẩu, gia tăng giá trị kinh tế cho ngành. Hiện tại, cả nước đã có hơn 600 hợp tác xã sản xuất dược liệu, đang hình thành các vùng trồng tập trung đạt chuẩn và liên kết với doanh nghiệp, góp phần tạo việc làm, thu nhập bền vững và phát triển nông nghiệp xanh.











