| Nham cá Vân Xuyên và loạt đặc sản lạ chỉ có ở Bắc Giang Ve sầu – đặc sản lạ gây tranh cãi vì lý do ít ai ngờ Đặc sản lạ gây sốt sàn thương mại, người dân thu bạc triệu mỗi tháng |
![]() |
| Rau nhót sinh trưởng quanh năm, nhưng giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng Giêng đến tháng 4–5 âm lịch, khi tiết trời mát mẻ. |
Từ rau dại đến đặc sản giá trị cao
Rau nhót, còn gọi là rau còng còng hay rau sương muối, là loại rau gắn liền với đời sống cư dân ven biển miền Bắc. Sinh trưởng trên những vùng đất mặn đặc trưng, rau xuất hiện nhiều nhất ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) và Cát Hải (Hải Phòng). Thuộc nhóm cây thân thảo, rau nhót mọc thành từng bụi lớn, rễ ăn sâu giúp bám chắc vào nền đất giàu khoáng. Đặc biệt, lá nhỏ, mọng nước và có hình dáng gần giống lá hoa mười giờ khiến người không sống ở vùng biển thường khó nhận biết. Khi phát triển cao, bụi rau trông tựa cây hương thảo, tạo nên vẻ mộc mạc nhưng rất đặc biệt. Chính vì vậy, nhiều người lần đầu gặp thường lầm tưởng đây chỉ là một loại cỏ hoang.
Mặc dù rau nhót sinh trưởng quanh năm, nhưng giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng Giêng đến tháng 4–5 âm lịch, khi tiết trời mát mẻ. Đây cũng là thời điểm người dân tranh thủ ra đồng hái rau để chế biến món ăn hoặc mang ra chợ quê bán. Trước đây, rau nhót chỉ là thứ rau dại dân dã, giá rẻ chỉ vài nghìn đồng mỗi kg, chủ yếu được dùng trong các món nộm, rau xào, hay thậm chí là “món cứu đói” của bà con miền biển. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, cùng với xu hướng chuộng thực phẩm sạch và tự nhiên, rau nhót đã “lên đời”, trở thành đặc sản được nhiều thực khách tìm mua và có mặt tại không ít nhà hàng hải sản.
Nhờ nhu cầu tăng cao, rau nhót xứ Nghệ hiện được vận chuyển đến nhiều tỉnh, thành và bán rộng rãi cả trên mạng lẫn tại các chợ đầu mối, với giá dao động từ 40.000–70.000 đồng/kg tùy mùa. Tại các nhà hàng ở vùng biển Quỳnh Nghệ An, đặc biệt là khu vực huyện Quỳnh Lưu cũ, món nộm rau nhót trở thành lựa chọn được nhiều du khách yêu thích. Điểm độc đáo nhất của loại rau này nằm ở vị mặn tự nhiên – dấu ấn của vùng đất thấm nước biển. Bên cạnh vị mặn, rau nhót còn có vị chua nhẹ, hơi đắng và mang độ giòn đặc trưng. Chính vì vậy, khi chế biến, người nội trợ hầu như không cần nêm thêm muối hay mắm.
![]() |
| Món nộm rau nhót ăn rất giòn, thơm, vị đậm đà và có thể ăn kèm bánh mướt xứ Nghệ, bún hoặc bánh đa đều hợp. |
Không chỉ nổi bật về hương vị, rau nhót còn phong phú trong cách chế biến: làm nộm, nấu canh thịt bằm, xào thịt bò, xào tỏi, xào hải sản hoặc đơn giản là luộc chấm tương, nước mắm. Chia sẻ bí quyết làm nộm rau nhót, chị Thảo Phạm – người bán đặc sản Nghệ An – cho biết: Khi mua về, cần nhặt bỏ lá già, úa; ngâm vài giờ cho bớt mặn rồi luộc 3–5 phút. Sau đó cho rau vào tô nước đá để giữ màu xanh và độ giòn, vắt thật kỹ cho ráo rồi đánh tơi. Khi trộn, đầu bếp thêm lạc rang, cà rốt sợi, giá đỗ, lá chanh, ớt, tỏi, nước cốt chanh và chút đường. “Rau nhót vốn đã mặn nên không cần nêm thêm mắm muối”, chị Thảo Phạm nhấn mạnh. Món nộm rau nhót ăn rất giòn, thơm, vị đậm đà và có thể ăn kèm bánh mướt xứ Nghệ, bún hoặc bánh đa đều hợp.
Hiện nay, nhiều nơi còn biến tấu món ăn bằng cách thêm thịt luộc hoặc tôm bóc nõn để tăng độ phong phú. Tuy nhiên, do đặc tính mọng nước, rau rất dễ mềm hoặc héo nếu bị sương muối hoặc bảo quản lâu trong tủ lạnh, vì vậy khâu xử lý sau thu hoạch cần được thực hiện đúng cách. Trong bối cảnh rau hái tự nhiên không còn đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, nhiều hộ dân đã mạnh dạn thuần hóa và đưa cây rau mọc dại này vào canh tác. Nhờ đó, các mô hình trồng rau nhót tại Nghệ An ngày càng xuất hiện phổ biến hơn, góp phần giúp người dân có thêm nguồn thu nhập đáng kể và biến loại rau dân dã này thành một sản vật đặc trưng của vùng biển.
Làm thế nào để trồng rau nhót quy mô lớn
![]() |
| Anh Quân bên cánh đồng rau nhót của mình. Ảnh: Đức Hùng |
Câu chuyện của anh Trần Văn Quân (41 tuổi) ở cánh đồng Doi, phường Quỳnh Mai (tỉnh Nghệ An) là một minh chứng. Cánh đồng Doi vốn là vùng bãi bồi nhiễm mặn, khô cằn, từng bị bỏ hoang vì các loại hoa màu như ngô, lạc, đậu tương chậm lớn, kém năng suất. Tám năm trước, anh Quân nảy ra ý tưởng khởi nghiệp với cây rau nhót, đưa giống hoang dại về thuần dưỡng và trồng thâm canh. Năm 2018, anh gom toàn bộ vốn liếng, vay mượn thêm hơn 500 triệu đồng để khoán hơn 1 ha đất, san ủi, cải tạo mặt bằng, làm mương thoát nước và lắp đặt hệ thống tưới tự động nhằm phục vụ trồng rau nhót.
Anh Quân kể, thời gian đầu gần như thất bại hoàn toàn: “Tôi không có kiến thức gì về cây này. Một năm đầu rau gần như không phát triển, xanh tốt rồi lụi dần và chết. Tôi phải làm lại từ đầu về hệ thống đất, nước, giống, độ ẩm và phân vi sinh. Mãi đến lần xuống giống thứ tư rau mới thích ứng, bắt đầu phát triển tốt. Lúc có được những sản phẩm đầu tiên, tôi thực sự vui mừng”.
Theo anh, rau nhót mọc tự nhiên chỉ khoảng hai tháng (tháng 1 và tháng 2 âm lịch). Tuy nhiên, khi được thuần hóa và canh tác bài bản, chu kỳ sinh trưởng có thể kéo dài đến 11 tháng. Vùng đất phù hợp nhất là đất ven đầm nước lợ hoặc đất nhiễm mặn – môi trường gần giống nơi cây sinh trưởng trong tự nhiên. Trước khi trồng, đất cần được cải tạo, lên luống cao hơn 20 cm, thoát nước tốt và làm sạch cỏ. Cỏ dại được gom đốt lấy tro, trộn vào đất tạo lớp mùn giàu khoáng.
Nguồn giống có thể lấy từ cây mọc hoang hoặc từ hạt của cây mẹ khỏe. Tuy nhiên, giai đoạn đầu cây thường khó thích nghi, dễ còi cọc, chết non hoặc ra hoa sớm nếu môi trường không phù hợp. Vì vậy, việc theo dõi độ mặn của đất, điều chỉnh nước tưới và bổ sung phân hữu cơ là yêu cầu bắt buộc trong quá trình thuần hóa. Để cây phát triển ổn định và cho thu hoạch quanh năm, người trồng cần tuân thủ đặc tính tự nhiên của rau nhót, bổ sung phân gà ủ chua, bã mắm lên men và thỉnh thoảng tưới nước mặn.
![]() |
| Nhờ kỹ thuật canh tác phù hợp, nhiều diện tích cho thu hoạch liên tục 10–11 tháng; sau mỗi lần hái, chồi non bật rất nhanh, giúp cây phục hồi mạnh. Ảnh: P.T. |
Thời điểm xuống giống thích hợp nhất là tháng 9 âm lịch. Khi cây non mọc lên, người trồng đem gieo cấy. Sau giai đoạn thử nghiệm và điều chỉnh, cây dần quen với môi trường mới. Khi đã ổn định, rau chỉ cần khoảng ba tháng kể từ lúc gieo đến khi thu hoạch. Nhờ kỹ thuật canh tác phù hợp, nhiều diện tích cho thu hoạch liên tục 10–11 tháng; sau mỗi lần hái, chồi non bật rất nhanh, giúp cây phục hồi mạnh. Mỗi tháng có thể thu từ 2–3 lứa theo hình thức cuốn chiếu, bảo đảm nguồn cung đều đặn. Khi thu hoạch, chỉ cần dùng liềm cắt ngọn cách gốc 5–7 cm, cây sẽ tự bật chồi mới. Rau nhót được cắt khi lá còn non, giòn, màu xanh tươi; gốc cây tiếp tục tái sinh nên không cần trồng lại thường xuyên.
Nhờ hương vị chua thanh, dễ chế biến, rau nhót ngày càng được ưa chuộng tại các nhà hàng, khách sạn. Giá bán dao động từ 20.000–25.000 đồng/kg. Mỗi tháng anh Quân thu hoạch 3–5 tấn rau; sau khi trừ chi phí, cánh đồng mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, đồng thời tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động và tới gần 20 lao động trong các giai đoạn cao điểm. Cuối năm 2024, Hợp tác xã rau nhót của anh được công nhận là sản phẩm OCOP, đánh dấu cột mốc quan trọng trong hành trình khởi nghiệp.
Một số hộ tại Nghệ An cũng đang phát triển dòng sản phẩm rau nhót chế biến sẵn như rau nhót sấy, rau đóng gói tiện lợi nhằm nâng cao giá trị và mở rộng thị trường. Anh Quân cho biết đang lên kế hoạch hiện thực hóa các sản phẩm sơ chế để tiếp cận nhóm khách hàng rộng hơn. Người trồng cũng tính tới việc mở rộng vùng nguyên liệu vào các tỉnh phía Nam – nơi có khí hậu phù hợp và nhu cầu thị trường lớn – nhằm chủ động nguồn cung, giảm phụ thuộc mùa vụ và gia tăng khả năng cạnh tranh cho rau nhót.













