Gạo, cà phê, hồ tiêu, thủy sản Việt Nam ngày càng được người Pháp ưa chuộng Xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines tăng mạnh Xuất khẩu gạo có nhiều tín hiệu khởi sắc |
Khơi thông “điểm nghẽn”, giữ vững “ngôi vị” xuất khẩu gạo |
Việt Nam được biết đến là cường quốc xuất khẩu gạo với sản lượng xuất khẩu khoảng 6,3 triệu tấn gạo/năm (chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới).
Gạo Việt Nam đã có mặt ở hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, thị trường xuất khẩu chính là châu Á, chủ yếu là Trung Quốc và Philippines. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của thương hiệu gạo Việt vẫn chưa cao và việc chen chân vào thị trường cao cấp để bán với giá cao cũng chưa được thuận lợi.
Bên cạnh đó, hạt gạo Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi chủ nghĩa bảo hộ lương thực và lạm phát gia tăng trên khắp các nền kinh tế, đặc biệt xung đột giữa Nga - Ukraine đã khiến cho giá cả nhiều loại hàng hóa; trong đó, giá xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… tăng cao chưa từng có.
Để Việt Nam giữ vững “ngôi vị” xuất khẩu gạo hàng đầu, chất lượng hạt gạo cao, giá gạo cạnh tranh, mang lại giá trị cao cho doanh nghiệp, bà con nông dân, vấn đề đặt ra cho ngành lúa gạo là cần khơi thông được những “điểm nghẽn” như giống lúa, an toàn thực phẩm, logistics, chi phí vật tư sản xuất đầu vào và công nghệ, vốn cho sản xuất và xuất khẩu…
Các chuyên gia thảo luận tại hội thảo với chủ đề "Khơi thông dòng chảy hạt gạo Việt". |
Ông Nguyễn Quốc Toản - Cục trưởng Cục Chế biến & Phát triển Thị trường nông sản cho biết, ngành lúa gạo có vai trò quan trọng, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn là ngành hàng phát triển gắn liền với yếu tố sinh thái và văn hóa lúa nước của Việt Nam. Do đó, vấn đề đặt ra là không chỉ khơi thông những gì đang tắc nghẽn mà phải khơi thông cả những kỳ vọng đối với ngành lúa gạo.
Theo ông Toản, nhiều cơ chế, chính sách để phát triển ngành lúa gạo đã được đề ra, tuy nhiên trong thực tiễn vẫn có những nút thắt. Cơ quan nhà nước cần thúc đẩy hỗ trợ các chi phí hạ tầng liên kết, thành lập những tổ công tác cộng đồng liên kết bà con nông dân với các hợp tác xã.
“Tôi hy vọng hạt gạo Việt Nam không chỉ dừng ở doanh số xuất khẩu 3 tỉ USD mỗi năm mà còn hướng đến giảm số lượng xuất khẩu nhưng tăng giá trị hạt gạo, giá thành xuất khẩu”, ông Toản nói.
Tập trung vào các thị trường trong điểm
Ông Đỗ Hà Nam - Phó chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, năm 2021 các thị trường xuất khẩu gạo ổn định như Philippines, Trung Quốc, trong khi Indonesia và Malaysia giảm mạnh, cho thấy thị trường Đông Nam Á chúng ta trông cậy chủ yếu ở thị trường Philippines.
“Chúng ta nói doanh nghiệp cần mở rộng thị trường, cạnh tranh với Thái Lan nhưng cần suy nghĩ lại. Có những sản phẩm Thái Lan làm mình không có và ngược lại, người tiêu dùng dùng sản phẩm nào thì sản phẩm đó ổn định. Như thị trường Philippines họ thích ăn gạo Việt hơn. Vậy Việt Nam ổn định thị trường này. Không phải mở rộng thị trường nào mà quan trọng thị trường bền vững”, ông Đỗ Hà Nam khẳng định.
Ông Đỗ Hà Nam - Phó chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam |
Đồng quan điểm, ông Phạm Quang Diệu - Chuyên gia phân tích thị trường lúa gạo cho rằng, để vào thị trường cao cấp rất khó khăn bởi tiêu chuẩn khắt khe và việc đảm bảo chất lượng đồng đều không dễ. Để gạo Việt đi vào thị trường Mỹ, Nhật, EU đều phức tạp. Ngoài ra, trong 4-5 năm, gạo thơm Việt Nam có tín hiệu xuất khẩu tốt, vào Philippines, sang châu Phi.
“Đây là gợi ý cho chúng ta, nên tập trung vào thị trường trọng điểm, xây dựng thương hiệu, hệ thống phân phối tốt thay vì lan man đi nhiều thị trường như hiện nay”, ông Phạm Quang Diệu lưu ý.
Đồng quan điểm trong việc để khơi thông thị trường lúa gạo, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu, bà Bùi Kim Thùy, chuyên gia kinh tế hội nhập phân tích, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, lại có lợi thế khi tham gia hầu hết các nền kinh tế lớn trên toàn cầu thông qua các Hiệp định thương mại tự do, thế nhưng thực tế rất ít doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sử dụng thương hiệu của chính mình.
“Khơi thông thị trường xuất khẩu gạo nằm ở hàng rào kỹ thuật, phòng vệ thương mại, an ninh lương thực, hạn ngạch, thuế quan… Việt Nam vẫn phải chịu biện pháp phòng vệ, thuế suất đặc biệt là Trung Quốc”, bà Thùy nói.
Theo bà Bùi Kim Thùy, doanh nghiệp Việt có vẻ còn thiếu ý thức làm thương hiệu trên thị trường nước ngoài. Ngoài ra, cần lưu ý đến phòng vệ thương mại.
Chuyên gia này lưu ý, khi xuất khẩu gạo số lượng lớn, trong thời gian ngắn vào một thị trường, Việt Nam có thể chịu nhiều rủi ro về thuế quan. Gạo là sản phẩm nhạy cảm nên các hàng rào thương mại là nguy cơ.
Ông Phạm Quang Diệu - Chuyên gia phân tích thị trường lúa gạo |
Tăng trưởng vùng canh tác
Nhận định về vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, ông Nguyễn Chánh Trung - Phó Tổng giám đốc Tân Long Group cho biết, bức tranh thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam lâu nay vẫn thường được so sánh với đối thủ Thái Lan.
Tuy nhiên, so với Thái Lan, Việt Nam có các giống gạo đa dạng, có gạo ngắn, gạo tròn với nhiều chủng giống mà Thái Lan, Campuchia không có. Tương tự, nhiều giống gạo dài Thái Lan, Campuchia cũng không có. Nhưng, có điểm chung về thị trường xuất khẩu là Philippines.
Đặc biệt, tại Việt Nam các giống gạo thơm rất đa dạng. Gạo thơm đang thâm nhập các thị trường mới. Một số thị trường mới tại châu Phi như Ghana rất thích loại gạo này của Việt Nam, kể cả tấm. Việt Nam có thể cạnh tranh sòng phẳng với Thái Lan về giá gạo ST24. Trong khi đó, thị trường Trung Quốc tiêu thụ rất nhiều gạo ST21 của Việt Nam, giá gạo ST21 cũng từng rất cao, giá gạo japonica cũng cao hơn gạo dài.
“Tôi cho rằng mỗi loại gạo đều có thị trường riêng. Nếu gạo Việt Nam có bán cao hơn hay thấp hơn gạo Thái Lan hay 20-30 USD cũng là bình thường”, ông Nguyễn Chánh Trung nói.
Cũng theo ông Nguyễn Chánh Trung, tùy thuộc vào thời điểm thu hoạch của người nông dân thì sẽ đánh giá được mức độ lợi nhuận của bà con nông dân. Còn khi đã vào kho tạm trữ thì phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
“Bản chất của thị trường Việt Nam là thu hoạch theo vụ gối nhau 3 đến 4 tháng là lại có vụ thu hoạch. Nếu một thị trường bị ách, thì tồn kho sẽ tăng lên ảnh hưởng đến giá thành”, ông Trung cho hay.
Là doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu gạo lâu năm, ông Trung cho rằng, cần có kế hoạch tăng trưởng vùng canh tác. Để thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp xây dựng được kế hoạch dài hạn, có giống tốt, bảo quản tốt, lưu trữ, xử lý sau thu hoạch bài bản.