Hàng hóa Việt Nam sẽ tiến sâu hơn vào thị trường tỉ dân Giá cau tươi bất ngờ trở thành "câu chuyện thời sự" ở nhiều vùng quê Vì sao người dân ở nhiều địa phương mở rộng diện tích trồng tiêu? |
Xóa lời nguyền "vô danh" cho nông sản Việt. |
Sự khác biệt giữa sản phẩm có và chưa có thương hiệu
“Cùng là sầu riêng nhưng giống Musang King (Malaysia) trồng tại Việt Nam đang được bán từ 500.000 - 800.000 đồng/kg. Nghĩa là để mua một trái sầu riêng 2 - 3 kg, chúng ta phải chi tới hơn 2 triệu đồng. Trong khi giống sầu riêng Ri-6 của ta, chất lượng không hề thua kém thì giá cao nhất cũng chỉ khoảng 100.000 đồng/kg, bằng khoảng 1/5 - 1/8 so với sầu riêng nước bạn. Đó chính là sự khác biệt giữa một sản phẩm có thương hiệu và chưa có hoặc có nhưng thương hiệu chưa đủ mạnh”. Đó là dẫn chứng của ông Nguyễn Ngọc Toàn, Tổng biên tập Báo Thanh Niên tại tọa đàm về “Xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản Việt”, cho thấy sự cần thiết phải xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản Việt.
Thiệt hại của việc xuất khẩu không có thương hiệu được bà Võ Thị Tam Dân, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty CP Trà Rồng Vàng, dẫn chứng cụ thể: Trà ô long hái tay chất lượng cao, giá xuất khẩu thô chỉ dao động 10 - 12 USD/kg. Tuy nhiên, sau khi các nước nhập khẩu sơ chế, đấu trộn, đóng gói dưới thương hiệu của đơn vị nhập khẩu thì bán ra thị trường với giá cao gấp hàng chục lần. "Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu trà, đứng thứ 7 về sản xuất trà. Sản phẩm trà của Việt Nam xuất khẩu tới 74 quốc gia và vùng lãnh thổ, gồm Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia… Tuy nhiên, khoảng 90% sản lượng trà xuất khẩu vẫn ở dạng thô, giá bán thấp và được tiêu thụ dưới thương hiệu của các nhà nhập khẩu, xuất khẩu trà dưới dạng thành phẩm có thương hiệu còn rất hạn chế", bà Dân nói.
Việt Nam là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới nhiều mặt hàng nông sản như rau quả, gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ…Đây là những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đã đáp ứng ngày càng tốt hơn tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường, ngay cả những thị trường nhập khẩu yêu cầu cao về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng.
Song hiện nay vẫn rất ít sản phẩm nông sản được đăng ký bảo hộ thương hiệu. Nhiều nông sản xuất khẩu của Việt Nam chưa có logo, nhãn mác riêng, chưa tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị toàn cầu… Chính điều này khiến giá trị của các mặt hàng thấp.
Một nhà khoa học từng nói thẳng: "Câu chuyện xây dựng thương hiệu nông sản đã bàn rất lâu nhưng vẫn chưa có những thay đổi lớn. Nguyên nhân bắt nguồn từ 3 bên. Đầu tiên là nhà nước cũng chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc quảng bá thương hiệu cho nông sản Việt. Thứ hai, DN không có nguồn nguyên liệu, không có diện tích lớn nên muốn xuất khẩu gạo thì phải mua qua thương lái là chính. Ngay cả các tổng công ty lương thực mạnh nhất Việt Nam cũng không có nguồn nguyên liệu. Thứ ba là từ chính người nông dân. Muốn làm dự án lớn, trồng lúa trên diện tích 10.000 ha đất là không dễ khi đồng ruộng phân mảnh. Muốn tập hợp người nông dân lại rất khó, bởi họ không muốn phá bờ thửa ruộng của mình. Nếu chúng ta có thể giải quyết những khó khăn đó thì việc xây dựng thương hiệu dễ dàng hơn".
Ông Phạm Ngọc Anh Tùng - nhà sáng lập Foodmap nhớ lại thời điểm 6 năm trước, chè ô long của Việt Nam chỉ bán được với giá 9 USD/kg, trong khi Đài Loan xuất khẩu cùng loại này sang Mỹ với giá lên tới 100 USD/kg. Ông Tùng nhấn mạnh, hầu hết sản phẩm nông sản của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô. Nếu biết cách gia tăng giá trị sản phẩm, xây dựng thương hiệu và cải thiện chất lượng, chúng ta hoàn toàn có thể tăng giá trị xuất khẩu gấp đôi, thậm chí gấp ba lần.
Xây dựng thương hiệu bắt đầu từ sự thật tâm, đồng lòng
Chia sẻ kinh nghiệm của chính bản thân từng xây dựng cũng như chứng kiến sự lớn mạnh của nhiều thương hiệu trong và nước ngoài, "phù thủy marketing" Trần Bảo Minh, Phó chủ tịch Nutifood, khẳng định: Thương hiệu nông sản Việt muốn có vị thế, muốn cạnh tranh được trên thị trường quốc tế phải bắt đầu từ phân tích lợi thế. Muốn biết lợi thế, hãy đặt câu hỏi, với khí hậu, thổ nhưỡng, tập quán sản xuất của VN như hiện nay, vị trí địa lý như vậy thì loại cây nào, loại con nào sẽ có lợi thế cạnh tranh trong dài hạn? Đơn cử, nếu đem táo, lê của VN cạnh tranh với Úc thì thua chắc nhưng chôm chôm, sầu riêng thì chúng ta có nhiều cơ hội. "Nếu không biết lợi thế là gì sẽ rất khó để xây dựng thương hiệu nông sản Việt vì làm nông nghiệp phải có đất, mà đất thì có giới hạn. Trong giới hạn đất và nước như vậy, phải tạo ra những sản phẩm có giá trị cao nhất. Bên cạnh đó, làm thương hiệu không chỉ sản xuất rồi dán tên vào sản phẩm và mang đi xuất khẩu. Phải xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp, mang lại giá trị lớn cho tất cả mọi đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị, vào hệ sinh thái đó, tương tự như cách mà Ireland đã làm với sữa hay nhân sâm của Hàn Quốc thì mới tạo ra những thương hiệu mạnh", ông Trần Bảo Minh nói.
Tham vọng đưa thương hiệu mía đường của VN niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore, ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Tập đoàn Thành Thành Công (TTC), cho rằng muốn xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản Việt, phải bắt đầu từ trách nhiệm và tinh thần doanh nhân, nói đúng hơn là tinh thần doanh nông. "Bây giờ là không đổ thừa hay đùn đẩy nữa, mà phải bắt tay vào làm", ông Thành nêu quan điểm và kể lại hành trình của TTC. Khi VN gia nhập ATIGA (hiệp định thương mại nội khối ASEAN), DN rất lo ngại, giới hạn hạn điền cùng nhiều vướng mắc khác có thể khiến họ khó cạnh tranh với DN ngoại. Nhưng với suy nghĩ, cái gì cũng phải có giải pháp, Công ty CP Thành Thành Công - Biên Hòa (TTC AgriS, trực thuộc Tập đoàn TTC) đã quyết tâm nghiên cứu, xây dựng theo mô hình phát triển bền vững từ trong nước rồi vươn ra thế giới. "Đến nay, có thể tự hào mà nói TTC đại diện cho ngành mía đường Việt được rồi. Chúng tôi đã xuất khẩu những mặt hàng đặc trưng và đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ nội địa. Từ kinh nghiệm đó, khi xuất trực tiếp trái cây cũng vậy, chế biến phải chế biến sâu thì giá trị gia tăng mang lại mới cao. Bằng không chỉ có xuất khẩu thô mà thôi", ông Thành chia sẻ.
Những tín hiệu tích cực từ các địa phương
Nước mắm sá sùng Vân Đồn thương hiệu Vanbest được giới thiệu và bán tại Hội chợ OCOP Khu vực Đông Bắc - Quảng Ninh 2024. |
Tận dụng lợi thế có diện tích rừng lớn hơn 79,5 nghìn héc-ta, huyện Nậm Nhùn (tỉnh Lai Châu) đã phát triển nghề nuôi ong lấy mật gắn với xây dựng sản phẩm OCOP nhằm tạo sản phẩm nông sản đặc trưng của địa phương.
Tính đến thời điểm này, trên địa bàn huyện đã được hỗ trợ 1.249 thùng nuôi ong cho 2 hợp tác xã và 18 hộ dân, với tổng kinh phí trên 874 triệu đồng từ Nghị quyết số 07/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh quy định chính sách phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021-2025. Các hộ nuôi ong chú trọng áp dụng kỹ thuật trong khâu nuôi, khai thác, bảo quản mật ong. Nhờ đó, xây dựng thành công 3 sản phẩm mật ong đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, đó là: mật ong nơi thượng nguồn sông Đà; mật ong hoa mắc-ca Lê Lợi; mật ong hoa rừng Lê Lợi. Dự kiến, thời gian tới sẽ có thêm các sản phẩm: mật ong tinh bột nghệ nơi thượng nguồn Sông Đà, phấn ong nơi thượng nguồn Sông Đà. Với giá trị kinh tế đạt từ 2-2,5 triệu đồng/thùng/năm, giúp nhiều hộ dân xác định hướng phát triển kinh tế mới.
Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm mật ong, các cơ quan chuyên môn huyện tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn các chủ thể đăng ký tham gia đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP đầu tư máy móc, trang thiết bị đảm bảo quy trình khai thác, chế biến, bảo quản sản phẩm; thiết kế nhãn hiệu, mẫu mã, bao bì và đăng ký nhãn hiệu. Cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tiếp cận nguồn vốn, thị trường. UBND huyện tạo điều kiện hỗ trợ các tổ chức, hộ sản xuất kinh doanh tham gia chương trình giới thiệu, quảng bá, tiêu thụ, kết nối cung - cầu các sản phẩm tại các siêu thị, hội chợ, cửa hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại điểm du lịch cộng đồng trong và ngoài huyện. Các chủ thể chủ động giới thiệu sản phẩm và bán hàng qua các sàn thương mại điện tử như: Tiktok, Facebook, Shopee… Nhờ đó, sản phẩm mật ong trên địa bàn huyện đang được nhiều khách hàng tin dùng và đánh giá cao về chất lượng, từng bước khẳng định giá trị và uy tín trên thị trường.
Tại tỉnh Quảng Ninh, khoảng chục năm trở lại đây, việc xây dựng thương hiệu được tỉnh quan tâm đầu tư mạnh mẽ với sự vào cuộc tích cực của các cấp, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân với số kinh phí đầu tư lên tới hàng trăm tỷ đồng. Đặc biệt, Quảng Ninh là tỉnh đầu tiên trong cả nước xây dựng một chương trình riêng về phát triển thương hiệu nhằm nâng cao giá trị các nông sản. Theo đánh giá từ các chuyên gia, đây là sự chuẩn bị tốt cho các sản phẩm đặc thù, nhất là nông sản của tỉnh để hội nhập kinh tế quốc tế, tạo cơ sở để các sản phẩm nông nghiệp tự tin cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu.
Điển hình, như sản phẩm nước mắm sá sùng Vân Đồn thương hiệu Vanbest của Công ty TNHH MTV Newstar được công nhận là sản phẩm OCOP 4 sao của Quảng Ninh có đầu ra tương đối rộng ở thị trường trong và ngoài tỉnh với lượng tiêu thụ khoảng 40.000 lít/năm. Để có được những sản phẩm chất lượng, doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư công nghệ hiện đại vào khâu chế biến, đóng gói. Đồng thời, áp dụng hệ thống quản lý VSATTP HACCP; ISO 22000 và công cụ 5S vào quy trình quản lý, sản xuất và đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm trên các sàn thương mại điện tử.
Hiện toàn tỉnh có 336 sản phẩm OCOP của 13 địa phương đạt từ 3-5 sao. Trong đó, có 246 sản phẩm đạt 3 sao, 86 sản phẩm đạt 4 sao và 4 sản phẩm đạt 5 sao. Toàn tỉnh có 219 chủ thể sản xuất tham gia Chương trình OCOP, gồm 54 doanh nghiệp, 87 hợp tác xã, 78 hộ sản xuất. Nhiều sản phẩm OCOP Quảng Ninh đạt chất lượng, mẫu mã tốt, có thể xuất khẩu sang nhiều thị trường tiềm năng. Đặc biệt, tỉnh đã quan tâm xây dựng, triển khai dự án phát triển sản phẩm chủ lực cấp tỉnh theo hướng đáp ứng về số lượng, gia tăng về giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn cao và từng bước chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, phục vụ xuất khẩu.
Có thể khẳng định, việc xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm nông sản sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp người tiêu dùng hài lòng, tin tưởng lựa chọn và ưu tiên sử dụng sản phẩm có thương hiệu; là cầu nối cho việc xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường tiêu thụ ngoài nước, góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững, tạo đà thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ngành nông nghiệp xuất siêu hơn 11,8 tỷ USD trong 8 tháng |
Xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng đạt 46,28 tỷ USD |
Xuất khẩu nông sản có thể đạt trên 60 tỷ USD trong năm 2024 |