![]() |
| Hội thảo "“Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam” với dự tham gia của hơn 100 đại biểu là các chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp. |
Thách thức trong phát triển chuỗi giá trị xanh
Tại hội thảo với chủ đề “Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, theo dự báo, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam năm 2025 có thể đạt 70 tỷ USD, với thặng dư khoảng 20 tỷ USD. Tính đến hết tháng 10, thặng dư đạt 17,59 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ, chiếm gần 90% mục tiêu cả năm. Đây là minh chứng cho vị thế quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời cho thấy tiềm năng và cơ hội phát triển chuỗi giá trị xanh.
Ngành Nông nghiệp và Môi trường xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị xanh. Đây là giải pháp thúc đẩy sản xuất an toàn, thân thiện môi trường, góp phần bảo vệ đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học, đồng thời tăng cường liên kết vùng và phát triển nông nghiệp tuần hoàn. Chuyển đổi sang nông nghiệp xanh, hữu cơ và tuần hoàn không chỉ là yêu cầu nội tại mà còn là trách nhiệm đối với xã hội và thị trường quốc tế, nơi các tiêu chuẩn về an toàn, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải ngày càng khắt khe.
“Hiện nay, xuất khẩu chủ yếu vẫn ở dạng thô, giá trị chưa cao và việc xây dựng các nhà máy chế biến quy mô lớn còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với sự phát triển đa dạng về công nghệ và thiết bị hiện đại, ngành nông nghiệp hoàn toàn có thể triển khai các mô hình chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị xanh bền vững”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh. Ông cũng lưu ý rằng nếu tiếp tục xuất khẩu nông sản thô sẽ làm giảm giá trị sản phẩm, khai thác kém hiệu quả, và dẫn tới mất cân bằng trong chuỗi giá trị.
TS. Đào Xuân Hưng, Tổng Biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường, nhận định sau 6 năm triển khai Nghị định 98, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị, thu hút 300.000 hộ nông dân thông qua gần 2.000 hợp tác xã và tổ hợp tác. Khoảng 70% mô hình có sự tham gia của hợp tác xã trong vai trò tổ chức vùng nguyên liệu, ký kết hợp đồng và kiểm soát chất lượng, tổng vốn huy động đạt trên 20.000 tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp đóng góp 50-60%. Tuy nhiên, liên kết sản xuất vẫn thiếu bền vững, chưa khép kín quy trình, và hiệu quả giữa các địa phương chưa đồng đều.
PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, nhấn mạnh: “Biến đổi khí hậu là thách thức liên vùng. Liên kết vùng trở thành yêu cầu tất yếu và là trụ cột của phát triển nông nghiệp xanh. Khi các địa phương cùng sử dụng chung nền tảng dữ liệu khí hậu – môi trường, phối hợp vận hành thủy lợi, tích hợp bản đồ rủi ro thiên tai vào quy hoạch, chúng ta mới nâng cao năng lực chống chịu, giảm thiểu tổn thất và duy trì sinh kế bền vững cho người dân nông thôn.”
Ngoài ra, các chuyên gia cũng cho rằng ngành nông nghiệp còn đối mặt với thách thức lớn từ nông dân già hóa, trình độ hạn chế, thiếu kỹ năng ứng phó thiên tai và dịch bệnh, cũng như biến đổi chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp từ 1/7/2025. Đây là những vấn đề then chốt cần giải quyết đồng bộ để phát triển chuỗi giá trị xanh bền vững, nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời bảo vệ môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Giải pháp thúc đẩy chuỗi giá trị xanh bền vững
![]() |
| Khi triển khai đồng bộ, nông nghiệp Việt Nam sẽ trở thành ngành xanh, hữu cơ, cạnh tranh toàn cầu và bền vững trước biến đổi khí hậu. |
Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển chuỗi giá trị xanh, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Xây dựng nông nghiệp xanh, hữu cơ và tuần hoàn là bước đi tất yếu của Việt Nam. Chúng ta cần hình thành chuỗi liên kết vùng đồng bộ, vừa tăng giá trị gia tăng, vừa giảm phát thải và bảo vệ môi trường.” Việc triển khai các vùng nguyên liệu tập trung, kết hợp sản xuất – chế biến – tiêu thụ sẽ giúp giảm thất thoát sau thu hoạch, tối ưu hóa logistics và mở rộng thị trường cao cấp, đồng thời hình thành các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, có thương hiệu riêng trên thị trường quốc tế.
TS. Đào Xuân Hưng nhận định: “Để chuỗi giá trị xanh thực sự bền vững, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân. Tạp chí chúng tôi tiếp tục đóng vai trò cầu nối, lan tỏa giá trị xanh, hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang sản xuất hiện đại, chuẩn hóa quy trình và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.” Ông cũng lưu ý rằng liên kết vùng sẽ tạo điều kiện hình thành các mô hình nông dân chuyên nghiệp, nâng cao năng lực ứng phó thiên tai, dịch bệnh và khả năng chủ động trong sản xuất.
PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, khẳng định việc ứng dụng công nghệ bảo quản và chế biến sâu là then chốt để gia tăng giá trị nông sản. Ông đề xuất quy hoạch vùng sản xuất theo lợi thế vùng, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với đặc sản địa phương, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng, mùa vụ và liên kết bao tiêu giữa doanh nghiệp và nông dân. Công nghệ bảo quản lạnh đông, số hóa quy trình kiểm soát chất lượng, áp dụng hợp đồng thông minh sẽ giúp giảm thất thoát, tối ưu chi phí và nâng cao giá trị sản phẩm.
PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà nhấn mạnh: Liên kết vùng là trụ cột trong phát triển nông nghiệp xanh. Khi các địa phương chia sẻ dữ liệu khí hậu, phối hợp vận hành thủy lợi, tích hợp bản đồ rủi ro thiên tai vào quy hoạch, năng lực chống chịu sẽ được nâng cao, giảm thiểu tổn thất và duy trì sinh kế bền vững cho nông dân.
Các chuyên gia đồng thuận rằng chuỗi giá trị xanh phải đi đôi với chuyển đổi nông dân nhỏ lẻ sang nông dân chuyên nghiệp, nâng cao trình độ, tri thức và trách nhiệm. Doanh nghiệp cần dẫn dắt chuỗi giá trị thông qua tổ chức vùng nguyên liệu, đầu tư chế biến, phát triển thương hiệu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Chuỗi liên kết vùng, kết hợp chuẩn hóa quy trình, truy xuất nguồn gốc, ứng dụng tiêu chuẩn xanh và công nghệ cao sẽ giúp nông nghiệp Việt Nam nâng giá trị gia tăng, mở rộng thị trường cao cấp, tăng thu nhập nông dân, đồng thời hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.
Giải pháp tổng thể bao gồm: liên kết vùng đồng bộ, chuyển giao công nghệ, phát triển nông dân chuyên nghiệp, chuẩn hóa tiêu chuẩn và phát triển thương hiệu quốc gia. Khi triển khai đồng bộ, nông nghiệp Việt Nam sẽ trở thành ngành xanh, hữu cơ, cạnh tranh toàn cầu và bền vững trước biến đổi khí hậu. Sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng sẽ tạo nền tảng vững chắc để chuỗi giá trị xanh – hữu cơ – tuần hoàn trở thành trụ cột chiến lược trong phát triển nông nghiệp Việt Nam.












