Mới đây, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã có buổi làm việc với UBND tỉnh Quảng Trị về tình hình phát triển kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2020 và giải quyết một số kiến nghị, đề xuất của địa phương.
Theo đó, đại dịch Covid-19 đã làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong năm 2020. Tuy nhiên, quán triệt tinh thần Nghị quyết kỳ họp thứ 9 - Quốc hội khóa XIV, tỉnh chưa đặt vấn đề điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch năm 2020 mà quyết tâm phấn đấu vượt qua khó khăn nhằm đạt mức cao nhất các chỉ tiêu đã đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI…
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng (giữa) phát biểu tại buổi làm việc với UBND tỉnh Quảng Trị.
Lãnh đạo tỉnh mong muốn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho Quảng Trị có điều kiện bứt phá vươn lên, nhất là tham mưu trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xem xét, bố trí trên 885,7 tỷ đồng còn thiếu so với kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 -2020 và nguồn vốn cho các dự án sử dụng nguồn vốn 10.000 tỷ đồng.
Quan tâm giúp Quảng Trị thực hiện một số dự án đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông kết nối với khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị, khai thác và phát triển kinh tế biển, hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng thương mại biên giới như: Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, La Lay, cửa khẩu phụ Tà Rùng…
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, về cơ bản Quảng Trị đã đạt được các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, tuy nhiên một số chỉ tiêu quan trọng như tốc độ tăng trưởng, thu ngân sách, thu nhập bình quân đầu người, thu hút đầu tư toàn xã hội lại chưa đạt được.
Nguyên nhân là do vị trí địa lý của Quảng Trị không thuận lợi, chưa có cảng, chưa có sân bay; xuất phát điểm của tỉnh thấp, kết cấu hạ tầng hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được, tích lũy nội tại của địa phương và thu hút nguồn lực khó khăn.
Chính vì vậy Bộ trưởng nhấn mạnh định hướng phát triển của tỉnh trong thời gian tới, trước hết là phải tổ chức xây dựng được quy hoạch chung của tỉnh theo tư duy mới, tầm nhìn dài hạn để nhận diện những cơ hội mới và thách thức đi kèm...
Cũng theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, trong 5 năm tới, Quảng Trị vẫn phải lấy nông nghiệp làm trọng tâm, vì vậy tỉnh phải cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, mang lại hiệu quả cao; đặc biệt không nên chạy theo số lượng mà phải tăng giá trị, hiệu quả cao. Đồng thời Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, việc phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ mà Quảng Trị đang lựa chọn là hướng đi đúng.
Bên cạnh đó, tỉnh cần tập trung đầu tư vào khu Kinh tế Đông Nam, đặc biệt là đầu tư hạ tầng, các trục kết nối, quỹ đất trong khu kinh tế để thu hút nhà đầu tư tiềm năng.
Về phát triển du lịch, Quảng Trị nên có trục giao thông quy mô lớn nối đô thị Đông Hà với Khu Kinh tế Đông Nam và có thể nối dài đến Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng để khai thác du lịch biển và thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, những kiến nghị nào của địa phương nằm trong phạm vi thẩm quyền của Bộ KH&ĐT, Bộ trưởng sẽ hết sức ủng hộ để giúp cho tỉnh ngày càng phát triển.
Trước đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030.
Đề án nhằm phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ của khu vực và thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030
Cụ thể, mục tiêu đến năm 2025, diện tích nhóm đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ đạt khoảng 1,5 - 2% tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp; diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt khoảng trên 1% tổng diện tích đất trồng trọt với các cây trồng chủ lực như: Lúa, rau đậu các loại, cây ăn quả, chè, hồ tiêu, cà phê, điều, dừa...
Tỷ lệ sản phẩm chăn nuôi hữu cơ đạt khoảng 1 - 2% tính trên tổng sản phẩm chăn nuôi sản xuất trong nước. Các sản phẩm chăn nuôi được chứng nhận hữu cơ theo tiềm năng thế mạnh được ưu tiên như sữa, sản phẩm mật ong, sản phẩm yến sào, thịt gia súc gia cầm.
Diện tích nuôi trồng thủy sản hữu cơ đạt khoảng 0,5 - 1,5% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản, trong đó một số loài thủy đặc sản có giá trị kinh tế như: tôm nước lợ, tôm càng xanh, các loài thủy sản bản địa...
Nâng cao hiệu quả của sản xuất hữu cơ trên một đơn vị diện tích; giá trị sản phẩm trên 1 ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản hữu cơ cao gấp 1,3-1,5 lần so với sản xuất phi hữu cơ...
Nhiệm vụ chủ yếu đặt ra để đạt được các mục tiêu trên là phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ tập trung và các sản phẩm hữu cơ chủ lực; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất sản phẩm hữu cơ; nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp hữu cơ; phát triển các tổ chức chứng nhận, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và quy trình kỹ thuật; tăng cường chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩn hữu cơ...
Hồng Nga