![]() |
| Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thông tin về Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì triển khai theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Ảnh: VGP. |
Lúa gạo Việt Nam chuyển mình sau hai cuộc cách mạng
Hạt gạo Việt đã trải qua hai cuộc cách mạng lịch sử và hiện đang đứng trước cuộc tái thiết toàn diện lần thứ ba. Cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn ra trong thập niên 1960–1970, khi Việt Nam bắt đầu ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn tạo giống. Việc lai tạo các giống lúa ngắn ngày, chống đổ ngã, chịu hạn, năng suất cao thay thế dần giống dài ngày truyền thống, cùng với việc nhập khẩu và khảo nghiệm giống IRRI, sử dụng phân bón hóa học, đã đặt nền móng cho nông nghiệp hiện đại.
Cuộc cách mạng lần thứ hai đến sau Nghị quyết 10/1988, khi hộ nông dân được trao quyền tự chủ. Sự thay đổi về thể chế này làm bùng nổ năng lực sản xuất, giúp Việt Nam chuyển mình chỉ trong vài năm: Từ thiếu đói đến xuất khẩu gạo năm 1989, mở ra một giai đoạn tăng trưởng nhanh và bền vững. Từ năm 2023, cuộc cách mạng lần thứ 3 của lúa gạo Việt đang diễn ra, được xác định là cuộc cách mạng Xanh – Số. Cuộc cách mạng này gắn liền với Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) giai đoạn 2023–2030.
Mục tiêu không chỉ là tăng năng suất mà còn là “xanh hóa” chuỗi giá trị, giảm phát thải khí nhà kính và gia tăng giá trị cho hạt gạo Việt trong bối cảnh thế giới ưu tiên nông nghiệp bền vững. Nếu cuộc cách mạng lần 1 là nâng năng suất, lần thứ hai là trao quyền sản xuất, thì lần 3 là cuộc tái thiết toàn diện để đưa gạo Việt Nam tiến sâu hơn vào thị trường cao cấp và bền vững. Cốt lõi của cuộc cách mạng là tạo ra giá trị kinh tế - xã hội - môi trường cùng lúc. Tuy nhiên, hội nghị cũng chỉ ra những thách thức hiện hữu. Đầu tiên là biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.
Những trận mưa trái mùa, nguồn nước biến động bất thường và triều cường khó lường đang làm đảo lộn lịch thời vụ của nông dân ĐBSCL. Nhiều địa phương buộc phải điều chỉnh mô hình canh tác, chuyển sang trồng xen vụ hoặc lựa chọn cây trồng khác. Bên cạnh đó, khoảng cách công nghệ cũng là thách thức lớn: trong khi thiết bị, máy móc và các ứng dụng số phát triển nhanh, lực lượng lao động trực tiếp trong nông nghiệp lại tiếp cận chậm, chủ yếu là lao động lớn tuổi, ít điều kiện làm quen với công nghệ mới. Vì vậy, quá trình chuyển giao kỹ thuật gặp nhiều rào cản, ảnh hưởng đến tiến độ chuyển đổi xanh – số.
Ngoài ra, thị trường gạo thế giới ngày càng biến động, nhu cầu tiêu thụ có thể thay đổi đột ngột do yếu tố xã hội, chính trị hay thu nhập. Ngành gạo Việt chịu nhiều áp lực hơn trong việc duy trì chất lượng, ổn định sản lượng và đảm bảo khả năng cạnh tranh về giá trị. Đối diện với thách thức, Đề án 1 triệu ha lúa đã đạt được những kết quả đáng chú ý sau 2 năm triển khai. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành 2 quy trình: quy trình canh tác lúa giảm phát thải và Đo đạc, báo cáo và thẩm định/xác minh khí phát thải (MRV).
Thí điểm tại 11 điểm với diện tích 543,5 ha và 355 hộ tham gia cho thấy: năng suất tăng trung bình 5,12 tạ/ha, chi phí giảm từ 1,7 đến 4,9 triệu đồng/ha, và giá thành giảm từ 326 đến 1.052 đồng/kg lúa. Kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ giúp rút nước 2–3 lần/vụ, đồng thời giảm phát thải 3,7 tấn CO₂e/ha/vụ. Việc giảm lượng giống gieo sạ cũng đạt từ 70 – 100 kg/ha. Đến nay, đã có 354.800 ha được chứng nhận sản xuất bền vững tại 6 tỉnh vùng ĐBSCL, trong đó diện tích VietGAP là 7.493 ha, hữu cơ 246 ha, còn diện tích an toàn thực phẩm đạt 5.659 ha. 400 trong tổng số 620 hợp tác xã tham gia giai đoạn 1, hình thành chuỗi gạo xanh như Trung An, Tân Long. (Đủ 500 chữ)
Hợp tác Nhật Bản mang đến giải pháp phát triển xanh
![]() |
| Đại biểu tìm hiểu sản phẩm gạo ST25 trưng bày tại Diễn đàn “Xúc tiến đầu tư FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn”. Ảnh: Vĩnh Tường. |
Hợp tác với Nhật Bản, quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao và các tiêu chuẩn chất lượng hàng đầu, được xem là cơ hội vàng để học hỏi mô hình sản xuất xanh, tăng tính minh bạch và nâng chuẩn chất lượng cho hạt gạo Việt. Ông Hagiwara Hideki, Phó Cục trưởng thuộc Văn phòng Bộ trưởng phụ trách môi trường, xuất khẩu và quan hệ quốc tế (Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản) nhấn mạnh, mối quan hệ hợp tác bền chặt giữa hai nước và khẳng định: “Nhật Bản kỳ vọng lớn lao đối với thực hiện chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp. Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản sẽ hỗ trợ cao nhất cho những hoạt động này”.
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn khẳng định, hợp tác FDI với Nhật Bản lần này hướng tới xây dựng một hệ sinh thái sản xuất lúa gạo hiện đại. Theo ông Thịnh, hệ sinh thái đó bao gồm tổ chức nông dân theo mô hình HTX, liên kết chuỗi giá trị lúa gạo giảm phát thải, chuyển đổi số và tham gia thị trường carbon. Mục tiêu sâu xa là tạo lập một chuỗi giá trị khép kín từ giống, sản xuất, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ, một mô hình tiên tiến mà nhiều quốc gia đang theo đuổi.
Việt Nam đang mời gọi doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng. Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, Nhật Bản hiện là đối tác chiến lược, nhà tài trợ ODA lớn nhất và là nhà đầu tư lớn thứ ba của Việt Nam. Trong gần 3 tháng qua, hợp tác nông nghiệp giữa hai nước đã đạt nhiều kết quả thiết thực, từ việc ký kết Tầm nhìn hợp tác giai đoạn 2026-2030 đến thống nhất hỗ trợ phát triển vùng lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng 7 dự thảo biên bản ghi nhớ về AI, dữ liệu lớn, cơ giới hóa và giám sát giảm phát thải.
Việt Nam mời gọi doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực như: Tài chính xanh và công nghệ tín chỉ carbon; công nghệ cơ giới hóa chính xác và tiết kiệm tài nguyên; kinh tế tuần hoàn và xử lý phụ phẩm lúa gạo, bao gồm sản xuất than sinh học (biochar), phân bón hữu cơ từ rơm rạ. Việt Nam đặt mục tiêu đến cuối năm 2026 sẽ sản xuất được khoảng 350.000 ha đến 400.000 ha lúa chất lượng cao phát thải thấp. Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam sẽ ưu tiên lựa chọn và triển khai thí điểm ngay các mô hình công nghệ của Nhật Bản trong vụ Đông Xuân 2025 - 2026 tại các vùng nguyên liệu trọng điểm, cam kết tạo cơ chế và khung pháp lý tốt nhất cho nhà đầu tư sau thí điểm.
Bên cạnh đó, các địa phương và doanh nghiệp Việt Nam cũng đề xuất Nhật Bản tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực, sử dụng công nghệ nén rơm cho các nhà máy điện sinh khối, và đầu tư hạ tầng khép kín để giải quyết nguồn nước. Sự phối hợp chặt chẽ ở cả ba cấp độ Chính phủ - Cơ quan tài trợ - Doanh nghiệp được kỳ vọng bảo đảm thành công cho Đề án một triệu héc-ta lúa phát thải thấp, mang lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cho cả hai quốc gia.











