Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong vòng 15 năm qua, tổng lượng tiêu thụ nước ngọt tại Việt Nam đã tăng hơn 4 lần từ 1,59 tỷ lít (năm 2009) lên 6,67 tỷ lít (năm 2023). Đáng chú ý, mức tăng mạnh nhất ghi nhận trong giai đoạn 2009–2014, với tốc độ tới 20% mỗi năm.
![]() |
Tiêu thụ bình quân đầu người cũng tăng vọt từ 18,5 lít/năm lên 66,5 lít/năm. |
Tiêu thụ bình quân đầu người cũng tăng vọt từ 18,5 lít/năm lên 66,5 lít/năm – tương đương mức tăng hơn 350%. Dự báo từ các tổ chức nghiên cứu thị trường cho thấy, nếu không có biện pháp kiểm soát hiệu quả, con số này sẽ tiếp tục tăng trung bình 6,4%/năm trong giai đoạn 2023–2028, tức tăng thêm gần 37% chỉ sau 5 năm.
Sự bùng nổ trong tiêu dùng nước ngọt đang kéo theo hệ lụy nghiêm trọng về sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên. Một khảo sát tại 31 trường THCS ở TP.HCM cho thấy, học sinh thường xuyên uống nước ngọt có nguy cơ thừa cân, béo phì cao gấp 3 lần so với nhóm không thường xuyên sử dụng.
Trên thực tế, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ từ 5–19 tuổi đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua – từ 8,5% năm 2010 lên 19% năm 2020. Ở người trưởng thành, tỷ lệ này cũng tăng 30% chỉ trong 6 năm.
Không chỉ dừng lại ở hiện trạng, các nghiên cứu thị trường còn dự báo xu hướng tiêu thụ nước ngọt tại Việt Nam sẽ tiếp tục leo thang nếu không có biện pháp can thiệp hiệu quả. Cụ thể, mức tiêu thụ được dự đoán sẽ tăng trung bình 6,4% mỗi năm trong giai đoạn 2023–2028 – tức tăng tổng cộng 36,6% chỉ sau 5 năm.
Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay thanh thiếu niên có thể tiếp cận và sử dụng đồ uống có đường một cách dễ dàng ở bất cứ đâu, trong mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, chỉ một tỷ lệ nhỏ gia đình thực sự kiểm soát việc tiêu thụ loại đồ uống này.
Sự hấp dẫn của nước ngọt – từ hương vị đến quảng cáo – đã đánh trúng vào sở thích, thị hiếu của giới trẻ, nhanh chóng tạo ra tình trạng lệ thuộc và khiến việc tiêu dùng vượt khỏi tầm kiểm soát. Thực trạng này đang để lại hệ quả sâu rộng về mặt sức khỏe cho cả một thế hệ.
Một nghiên cứu quy mô toàn quốc về thừa cân, béo phì và các yếu tố nguy cơ tại Việt Nam cũng khẳng định: tiêu thụ nước ngọt là yếu tố nguy cơ đáng kể và cần được can thiệp nhằm giảm thiểu sử dụng trong cộng đồng.
![]() |
Một nghiên cứu quy mô toàn quốc về thừa cân, béo phì và các yếu tố nguy cơ tại Việt Nam cũng khẳng định: tiêu thụ nước ngọt là yếu tố nguy cơ đáng kể và cần được can thiệp nhằm giảm thiểu sử dụng trong cộng đồng. |
Tình trạng này không chỉ xảy ra ở Việt Nam. Một nghiên cứu trên 75 quốc gia cho thấy, cứ mỗi 1% gia tăng tiêu thụ đồ uống có đường, tỷ lệ người trưởng thành thừa cân tăng thêm 4,8%; béo phì tăng 2,3%; và tỷ lệ mắc đái tháo đường tăng thêm 0,3%.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thị Thu Hiền – Trưởng Khoa Hóa sinh và chuyển hóa dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia – cho biết: chỉ một lon nước ngọt mỗi ngày có thể khiến cơ thể nạp từ 30–40g đường tự do, cao hơn ngưỡng khuyến nghị của WHO là không quá 25g/ngày.
Về mặt sinh lý, tiêu thụ nước ngọt có thể kích thích cảm giác thèm ăn, làm giảm cảm giác no và tăng xu hướng ăn các thực phẩm kém lành mạnh khác. Điều này không chỉ làm mất đi cơ hội tiêu thụ thực phẩm giàu dinh dưỡng mà còn dẫn đến sự thay đổi hành vi ăn uống theo chiều hướng tiêu cực – đặc biệt trong giới trẻ. Về lâu dài, tình trạng này góp phần gia tăng nguy cơ mắc béo phì, đái tháo đường tuýp 2, sâu răng, các bệnh tim mạch và rối loạn chuyển hóa.
Đáng lo ngại hơn, thói quen uống nước ngọt thường xuyên hiện đang đi kèm với lối sống ít vận động của một bộ phận giới trẻ – khiến các tác động tiêu cực trở nên trầm trọng hơn.
Trước thực trạng đáng báo động, WHO khuyến cáo, trẻ vị thành niên cần hạn chế tối đa tiêu thụ đường tự do – tức đường đơn, đường đôi được thêm vào thực phẩm và đồ uống trong quá trình sản xuất hoặc nấu nướng. Tổng lượng khuyến nghị không vượt quá 25g/ngày, tương đương 6 thìa cà phê. Con số này bao gồm cả đường có trong mật ong, siro, nước ép trái cây, và các sản phẩm có bổ sung đường trong quá trình chế biến.
WHO cũng khuyến nghị các quốc gia, trong đó có Việt Nam cần áp dụng các biện pháp đồng bộ như: Đánh thuế đồ uống có đường, truyền thông đại chúng về tác hại của việc tiêu dùng quá mức, hạn chế quảng cáo – đặc biệt nhắm vào trẻ em, và kiểm soát chặt chẽ việc tiếp cận sản phẩm tại trường học.
Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Tuấn Lâm – Chuyên gia phòng chống các yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm, Văn phòng WHO tại Việt Nam – nhận định: giáo dục sức khỏe nên bắt đầu càng sớm càng tốt, lý tưởng là từ bậc tiểu học, khi trẻ bắt đầu hình thành thói quen sống. Việc trang bị kiến thức từ sớm sẽ giúp các em tự tin lựa chọn lối sống lành mạnh, tránh lệ thuộc vào các sản phẩm có đường trong tương lai.
![]() |
![]() |
![]() |