Tuyệt tác thiên nhiên núi rừng Đông Bắc Nên đi du lịch Cao Bằng vào thời điểm nào là đẹp nhất? Về thăm Cao Bằng - mảnh đất địa linh nhân kiệt ở vùng Đông Bắc |
1. Tôm cá chua
Giá cả dao động: 250.000 - 300.000 VNĐ/kg
Địa chỉ mua tôm chua Ba Bể ở Bắc Kạn: Chợ Khang Ninh - trên đường vào tham quan hồ Ba Bể
Chợ Bắc Kạn - Thành Công, Phùng Chí Kiên, Bắc Kạn
Đặc sản Bắc Kạn ngon - Tôm chua hồ Ba Bể |
Những khúc cá to và tôm được trộn mẻ, bột thính, giềng và các gia vị đặc biệt khác rồi bịt kín lại đem ủ, sau một thời gian người dân lấy ra nấu ăn. Tôm cá lúc này ăn rất thơm, mềm có vị chua ngọt riêng. Điều đặc biệt do ủ lâu, ngay cả xương cá cũng rất mềm nên khi nấu ăn người ta có thể ăn cả xương và thịt không phải bỏ thứ gì.
Ngày nay, nghề làm tôm chua, cá chua đang có xu hướng phát triển ở vùng hồ Ba Bể. Dọc theo các triền sông, suối người dân lấy tôm, cá về chế biến. Phải là tôm sông, cá sông mới cho hương vị đậm đà, riêng biệt với các vùng quê khác. Khi đánh bắt được các mẻ tôm sông, cá sông, người dân lựa chọn những con còn nguyên vẹn, đều nhau, cá thì cắt khúc rồi làm theo quy trình trên và ủ kín.
Sau một thời gian, khi tôm cá đã ngấm đủ gia vị, lên men, bỏ tôm chua, cá chua từ hũ ra, chắc hẳn không ai quên được hương vị đậm đà, mùi thơm của giềng, ngọt mềm chua dìu dịu, ăn cùng với cơm nấu bằng gạo nương thì người khó tính nhất cũng phải gật gù và thốt lên ăn không biết chán. Thường thì, người ta chưng tôm chua, cá chua lên với thịt băm và trộn thêm giềng giã nhỏ chưng lên nhưng nên nhớ rằng nếu cho nhiều thịt băm và giềng sẽ mất đi hương vị riêng của tôm chua, cá chua vùng hồ Ba Bể.
2. Pẻng phạ
Giá cả dao động: 50.000 - 60.000 VNĐ/phần
Địa chỉ ăn món pẻng phạ ở Bắc Kạn: Chợ Bắc Kạn - Thành Công, Phùng Chí Kiên, Bắc Kạn
Bánh pẻng phạ (bánh trời) |
Nhìn bề ngoài bánh không có gì nổi bật, những viên bánh tròn tròn chỉ nhỉnh hơn quả nhãn lồng đôi chút, lớp bột trắng bên ngoài dù có cố gắng làm duyên đến mấy cũng không phủ kín màu hơi nâu nâu của bánh nằm ẩn bên trong. Tuy mộc và thô như vậy, song không phải ngẫu nhiên mà người Tày chọn đó là một trong những món ăn truyền thống của dân tộc mình để dâng lên trời đất. Chỉ một chiếc bánh nhỏ xíu, song hội tụ nhiều nguyên liệu, hương vị đặc trưng của người dân nơi đây với vị cay nồng của rượu, vị ngọt của đường, vị chát rất thơm của nước chè mạn, vị béo bùi của bột nếp…
Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp. Gạo nếp ngon, nhặt sạch thóc, sạn đem xay khô thật mịn tay làm bột nếp. Bột được nhào với nước chè mạn pha đặc để lấy màu nâu và vị chát rồi thêm một chút rượu trắng cho dậy mùi. Sau khi nhào thật kỹ cho bột dẻo và mịn có thể vê thành những viên cỡ quả nhãn. Vì bột nếp rất dính tay lại dễ bị chảy xệ nếu nặn xong mà không chế biến ngay nên người ta vừa nặn bánh vừa chuẩn bị đun một chảo mỡ nóng bên cạnh.
Bánh được tráng qua một lớp bột áo làm từ gạo rang |
Khi mỡ nóng già thả bánh vào rán cho nổi mỡ, vàng ruộm thì vớt ra để cho ráo mỡ, bánh rán hết mới bắt tay vào áo bánh. Đường được đổ vào xoong, châm thêm chút nước cho đường dễ tan chảy rồi đun sôi, thử độ kết đông của đường bằng cách nhỏ vài giọt nước lã vào thấy đường lăn thành giọt không bị hòa tan thì bắt đầu thả bánh vào cho ngập đường. Bánh vớt ra lăn ngay vào bột áo. Bột áo cũng được làm từ gạo nếp rang vàng rồi xay nhỏ mịn giống như làm thính, song khi rang non tay hơn bột thính một chút để bột có màu hơi ngà chứ không vàng thẫm. Bánh pẻng phạ bên trong dẻo, do tác động nhiệt lớn bột bánh bên trong chưa kịp ngấu nhiệt lớp bên ngoài đã cứng giòn nên bánh giống như có nhân ăn rất thú vị.
3. Mắm tép chua Ba Bể
Giá cả dao động: 120.000 - 150.000 đồng/kg
Địa chỉ mua mắm tép chua ở Bắc Kạn: Chợ Bắc Kạn - Thành Công, Phùng Chí Kiên, Bắc Kạn
Mắm tép chua Ba Bể |
Tôm chua là món ăn ngon, có mặt ở nhiều nơi và nhiều vùng chế biến nhưng tôm chua ở Khang Ninh- Ba Bể có một hương vị rất riêng biệt của vùng miền núi Việt Bắc. Du khách đến Bắc Kạn mà không được thưởng thức tôm chua Ba Bể thì thật sự đáng tiếc.
Hiện nay cứ 5 ngày một phiên tôm chua được bày bán tại chợ Khang Ninh (trên đường du khách vào tham quan hồ Ba Bể) bởi lẽ Tôm chua không chỉ là món ăn quen thuộc của đồng bào miền núi nữa mà nhiều du khách thập phương biết đến.
Ở vùng này người ta thường ăn tôm chua với thịt chân giò hoặc ba chỉ luộc kỹ thái mỏng, một đĩa khế chua, nem thính tai lợn, chuối xanh, búp đinh lăng, lá mậy sâu (loại cây trên rừng)… Du khách đến đây giữa cảnh trời mây non nước của Ba Bể mà được nhấm nháp tôm chua thêm một chén rượu ngô nho nhỏ nữa sẽ thấy được cái cảm giác lâng lâng êm ái, thấm thía cái vị béo của thịt, vị cay của tỏi ớt ,vị thơm của riềng, của búp mậy sâu hoà quyên với vị ngọt của tôm thì quả là lý thú.
Du khách sẽ tò mò muốn biết cách chế biến tôm chua Ba Bể như thế nào mà có được hương vị đậm đà như vậy. Trước hết là cách chọn tôm: con tôm làm mắm chua phải đều nhau,mình tròn, béo, râu ngắn.
Con tôm mới bắt về còn đang nhảy tanh tách, nhặt hết rác, râu rửa sạch để cho ráo và xóc muối; đồ xôi chín (chọn loại nếp nương hạt tròn đều) dỡ ra giá để nguội sau đó trộn đều với men lá, thời gian để ngấm men tuỳ thuộc vào bí quyết mỗi gia đình; tỏi, ớt, riềng mỗi thứ một ít đập dập thái chỉ. sau đó trộn đều tôm, xôi và các loại gia vị trút vào vại đậy kín sau từ 7 đến 10 ngày ( theo thời tiết từng mùa) tôm bát đầu chua, đến ngày thứ 30 tôm sẽ bắt đầu có mùi thơm ngon lúc này theo khẩu vị mỗi người mà nêm thêm ớt, đường, bột ngọt. Sau một vòng du ngoạn Ba Bể du khách có thể tìm mua một vài hũ tôm chua mang về ăn dần hoặc biếu người thân của mình.
4. Lạp xường Bắc Kạn
Giá cả dao động: 330.000 - 450.000 VNĐ/kg
Địa chỉ mua lạp sườn hun khói ở Bắc Kạn: Các siêu thị, các khu du lịch tại Bắc Kạn - Phương Viên, Chợ Đồn, Bắc Kạn
Lạp xưởng hun khói nét độc đáo của ẩm thực Bắc Kạn |
Làm lạp xường cũng rất cầu kỳ và công phu. Đầu tiên phải chọn lòng để làm lớp vỏ lạp xường. Lòng non để làm lạp xường phải chọn đoạn lòng đắng vì phần lòng này dai và khá dày, làm lạp xường mới được. Sau khi tuốt rửa sạch lại phải bóc, lột bỏ lớp vỏ ngoài của lòng đi, chỉ lấy lớp màng mỏng bên trong. Việc bóc lòng không khó, chỉ cần khéo léo và nhẹ tay một chút. Lòng bóc xong, thổi hơi vào cho phồng lên, buộc chặt hai đầu, đem hong chỗ thoáng gió. Khoảng một tiếng đồng hồ, bộ lòng se lại, mỏng và dai như ni lông. Thế là được phần vỏ lạp xường.
Để làm nhân lạp xường người ta chọn loại thịt nửa nạc nửa mỡ. Bởi nạc nhiều, lạp xường sẽ khô, sác; mỡ nhiều, lạp xường sẽ nhão, ăn mau ngấy nên loại thịt thích hợp nhất để làm lạp xường là thịt vai. Thịt được lạng bỏ lớp bì, thái miếng vừa phải, ướp muối, đường, bột ngọt. Và không thể thiếu một ít rượu trắng, một ít nước gừng và một ít quả mắc mật khô xay nhỏ ướp cùng. Theo kinh nghiệm của đồng bào nơi đây thì ướp thịt với rượu trắng và nước gừng như vậy khiến cho lạp xường sẽ có mùi thơm rất đặc trưng, để được lâu mà không bị hỏng.
Công việc phức tạp nhất là nhồi lạp xường. Với một chiếc phễu và một chiếc đũa, từ từ dồn thịt vào cho đầy phần lòng non đã chuẩn bị. Để dễ làm, cứ nhồi được chừng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Thỉnh thoảng lại lấy kim châm vài chỗ cho khí thoát ra để lạp xường khỏi nứt. Nhồi xong thì đem lạp xường đi phơi nắng cho khô dần. Hoặc đem hong trên gác bếp. Hơi ấm của bếp lửa sẽ làm lạp xường se lại, săn chắc. Lạp xường được nắng, được hơi lửa, cứ ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Ngày 27, 28 làm lạp xường thì khoảng mồng 2, mồng 3 tết là ăn được.
Lạp xường khi đã khô thì để nguyên cả khúc đem chiên cho chín sau đó mới thái lát, khi ăn chấm với mắm gừng. Hoặc thái lạp xường thành các khoanh dầy vừa phải, chờ cho mỡ trong chảo thật nóng già thì cho lạp xường vào, đảo lên, rưới thêm ít nước mắm, rắc thêm chút hành tươi. Đĩa lạp xường thơm phức, mới trông đã thấy thèm. Cho nên ngày tết, dù có bao món ngon, lạp xường vẫn là món được mọi người đụng đũa nhiều hơn cả.
Lạp xường được làm bằng bàn tay của người Bắc Kạn có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mùi mắc mật thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Nhấp thêm chút rượu nữa thì càng thêm khoái khẩu.
5. Rượu men lá Bằng Phúc
Rượu men lá của người Bằng Phúc khi uống có hương vị rất hấp dẫn, ngọt mát, rất dịu, êm hơn bất kỳ loại rượu nào khác. Rượu dù uống say đến đâu thì vẫn cứ sảng khoái, nhẹ nhõm.
Để làm ra men rượu, phải lên rừng tìm đủ các loại lá cây, thông thường men rượu được làm từ khoảng 16 loại lá rừng, hầu hết đều là những loại lá thuốc có tác dụng bồi bổ cơ thể và tạo nên hương thơm. Hái lá rừng là công đoạn vất vả nhất, để hái đủ các loại lá thì những người phụ nữ phải mất tới 3 đến 4 ngày đi rừng. Trong các loại lá cây, thì cây Thau Hương (một loại lá tạo mùi thơm) là loại khó lấy nhất, bởi đây là loại lá leo trên những cây cao, cổ thụ, nên chỉ có đàn ông mới hái được. Những ngày giáp Tết, nhu cầu thị trường cao hơn, nên việc đi rừng hái lá về làm men cũng vất vả hơn.
Sau khi hái đủ các loại lá, đến công đoạn rửa sạch, băm nhỏ và phơi khô rồi sắc lấy nước để ngâm gạo. Công đoạn này đòi hỏi người nấu phải tự ước lượng lá cây mỗi loại sao cho vừa đủ. Muốn làm được men ngon phải chọn được gạo ngon, đem ngâm 1 ngày, sau đó vớt ra để ráo nước rồi mới nghiền thành bột. Bột này đem trộn đều với nước lá và nặn thành từng viên men.
Bắt đầu từ tháng 8 trở đi, khi hết mùa mưa, nước thượng nguồn trong vắt, ngọt lịm, người dân dẫn nước về, làm ra những mẻ rượu thơm đượm vị rừng, ngọt mát vị núi và trong vắt như nước đầu nguồn. Nấu rượu men lá rất công phu, đòi hỏi sự khéo léo và tốn nhiều công sức. Quá trình cất phải dùng củi đun đều lửa, không cho cháy to quá cũng không nhỏ quá để rượu ra từ từ. Rượu men lá trở nên quý cũng vì cách làm kỳ công như thế.
6. Bánh ngải người Tày
Giá cả dao động: 4.000 - 6.000 VNĐ/cái
Địa chỉ ăn món bánh ngải ở Bắc Kạn: Chợ Đồn, Bắc Kạn
Có một loại bánh mà chỉ người Tày mới có đó là bánh ngải. Bánh ngải có màu xanh đặc trưng của thiên nhiên, hình thù và cách làm gần giống với bánh dày của người miền xuôi. Làm bánh ngải không khó nhưng lại đòi hỏi sự công phu và khéo léo từ khâu chọn gạo, đường, rau ngải cho đến khâu ra bánh.
Bánh ngải kén gạo vì thế không phải loại gạo bất kỳ nào cũng làm được bánh. Muốn bánh thơm, dẻo phải chọn loại nếp nương và không được lẫn dù chỉ một hạt gạo tẻ. Đường để làm nhân bánh cũng phải lựa chọn rất cẩn thận, phải chọn đường phên (một loại đường thẻ, miếng to chừng bàn tay) có màu vàng, ngọt và không có sạn.
Lá ngải được rửa sạch, đun trong nước tro bếp từ 2 đến 3 giờ. Để có nước tro tốt, người ta chọn tro sạch, tốt nhất là tro tre nứa, hoặc tro vỏ đậu xanh. Tro sạch được lèn vào rá tre, để rá trên chậu tạo khoảng cách cho nước từ rá chảy xuống. Người ta đổ nước từ từ vào tro cho ngấm dần rồi chảy xuống chậu. Nước tro lúc đầu đặc có màu cà phê, sau loãng dần. Lá ngải đun trong nước tro rất chóng nhừ. Sau khi đun nhừ, đổ lá ngải ra rá, rửa nhiều lần cho sạch nước tro, nhặt bỏ sơ (gân lá, cuống lá già), vắt kiệt nước rồi nắm thành từng nắm bằng nắm tay.
Gạo làm bánh được ngâm từ tối hôm trước rồi đem đồ chín thành xôi vừa độ dẻo. Trong quá trình đồ, khi lên hơi, người ta thường tưới thêm lần nước để khi giã bánh sẽ dẻo hơn. Trong quá trình chờ xôi chín sẽ chuẩn bị nhân bánh, người ta đun đường phên lên thành mật sau đó trộn mật với vừng đen rang chín giã nhỏ. Nhân bánh chính là bí quyết tạo ra hương vị thơm ngon cho chiếc bánh.
Xôi đồ chín phải giã ngay lúc còn nóng cùng với những nắm lá ngải để bánh mềm, mịn và dẻo. Sau khi xôi được giã nhuyễn, các bà, các mẹ sẽ nhanh tay múc ra mâm để nặn bánh. Bánh được nặn thành hình tròn sau đó ấn dẹt ra, cho thìa nhân vào giữa, rồi gói vỏ bánh lại bọc kín lớp nhân bên trong thành hình như chiếc bánh dày là được. Cố gắng khéo léo để nhân không bị trào ra ngoài vỏ bánh. Mỗi chiếc bánh nóng hổi được đặt trên một khoanh lá chuối tròn nhỏ bằng chiếc bánh để chúng không dính vào nhau. Sau đó gói chung khoảng 10 cái bánh nhỏ vào một lớp lá chuối để giữ bánh được lâu hơn.
Bánh ngải là thứ bánh rất dễ ăn, mát và không ngấy, nếu ai đã từng ăn một lần sẽ không quên mùi vị của loại bánh dân dã này. Vị hăng hăng, thơm thơm là lạ của lá ngải như dung hòa cái dẻo, cái ngọt của nếp, của đường, miếng bánh có sự tươi non của đồi nương, cái hoang dã của lá rừng như gói cả mùa xuân trong mát.
7. Xôi Đăm Đeng
Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm. Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân miền núi quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.
Món xôi Đăm Đeng rất độc đáo vì được nấu từ gạo nếp nương và tất cả màu sắc của xôi không tạo ra bằng phẩm màu mà bằng hương sắc của cây cỏ. Người ta lấy lá của cây cẩm và vài loại lá khác đun lên, chắt nước ra, ngâm gạo nếp vào khoảng vài giờ rồi mang đồ trên chõ gỗ. Nước ngâm gạo phải nóng già thì khi chín xôi mới có độ dẻo.
Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm.
Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân miền núi quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.
Nếu có dịp lên Bắc Kạn vào những ngày lễ, tết hãy thưởng thức món xôi “Đăm Đeng” để tận hưởng hương sắc của núi rừng nơi đây.
8. Bánh Khẩu Thuy
Bánh Khẩu Thuy đặc sản Bắc Kạn – món ăn tuyệt vời từ núi rừng |
Vào mỗi dịp lễ hội Lồng Tồng, thứ bánh không thể thiếu để dâng lên trời đất, để cúng thần linh cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hoà là bánh Khẩu Thuy. Bánh tròn như quả trứng chim cút, vàng óng vì được tẩm mật mía, ăn vừa ngọt, vừa thơm, giòn tan nơi đầu lưỡi với hương vị mang bản sắc riêng của người Tày.
Để làm được bánh ngon phải cần nhiều nguyên liệu, nhiều công đoạn và khá cầu kỳ. Họ lấy bèo tây đun lên lấy nước, lại lấy cây vông hoa đỏ đốt lên lấy tro. Dùng nước bèo tây và nước tro để ngâm gạo nếp. Ngâm cho gạo nở to rồi đem lên đồ. Một thứ không thể thiếu được khi làm Khẩu Thuy là khoai sọ. Khoai sọ cũng đồ lên cùng với gạo nếp, cho thêm một chút rượu vào. Bèo tây, tro vông để làm bánh nở được to, khoai sọ để bánh lên màu, rượu để bánh có vị thơm.
Bánh mang mùi vị rất riêng bởi cách chế biến và nguyên liệu |
Sau khi đồ chín, cho tất cả vào giã. Giã Khẩu Thuy cũng như giã bánh dày. Giã đến khi cối bánh lên bọt trắng, giơ chày quá đầu người không thấy bột bánh dính đầu chày nữa thì mới được. Để giã được một cối bánh không phải đơn giản. Vậy nên, các cụ ngày xưa muốn thử sức con rể thì việc đầu tiên là cho giã một cối bánh dày. Giã càng nhanh, càng nhuyễn thì càng “đạt yêu cầu”. Giã bánh xong, đổ ra một cái mẹt to và cán cho thật mỏng. Chờ cho bánh nguội bớt, siu mặt thì đem cắt từng miếng hình quả trám hoặc hình vuông. Đem phơi khô tất cả để chờ đến tết hoặc ngày hội mới đem rang phồng lên. Rang Khẩu Thuy cho phồng hết cỡ để khi ăn không bị lợn cợn.
Công đoạn cuối cùng để hoàn thành món bánh này là tẩm đường cho bánh. Đun sôi mật mía, trút bánh đã rán phồng vào đảo đều, sau đó, đổ ra mẹt đã tra sẵn một chút bột gạo rang. Để giữ được lâu, người ta cho vào túi nilông buộc kín sẽ khiến bánh không bị ỉu mà vẫn giữ được hương vị.
9. Cá nướng Pắc Ngòi
Giá cả dao động: 80.000 - 120.000 VNĐ/kg
Địa chỉ ăn món cá nướng Ba Bể ở Bắc Kạn: Bản Pac Ngoi, hồ Ba Bể - Pac Ngoi, Nam Mẫu, Ba Bể, Bắc Kạn
Nhà hàng Hải Huyền - TT. Chợ Rầm, Ba Bể, Bắc Kạn
Cá trong hồ Ba Bể có rất nhiều, thường được người dân đánh bắt thủ công, số lượng cá không nhiều nhưng chất lượng thì thật tuyệt vì thịt cá trắng, chắc và có vị ngọt. Người ta chọn lấy loại cá chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, loại cá này vừa giống như cá bống, vừa giống con cá nẹp ở xuôi để làm món cá nướng.
Để có được món cá nướng, người dân nơi đây đã phải trải qua một quá trình chế biến cá, dù không khó nhưng lại mất thời gian. Cá tươi sau khi được đánh bắt chọn những con đều nhau, mổ lấy ruột bỏ đi và rửa sạch, sau đó cho vào chõ đồ chín tới. Tiếp đến người ta dùng nẹp tre để tạo thành kẹp, mỗi kẹp chừng 8 – 10 con. Đem những kẹp cá phơi cho khô ngoài nắng. Phơi khoảng 3 – 4 nắng là được. Khi ăn, ta chỉ việc gỡ cá ra khỏi nẹp tre và dùng cồn để nướng (giống như nướng mực), hoặc để cả kẹp cá mang nướng trên bếp than (nướng bằng than cá sẽ ngon hơn). Không cần nướng quá kỹ vì cá đã đồ một lần rồi. Ta chỉ nướng sơ cho cá vừa chín tới. Nướng kỹ quá cá sẽ bị đắng và khô ăn sẽ kém ngon.9.
10. Bánh trứng kiến
Giá cả dao động: 120.000 VNĐ/10 cái
Địa chỉ ăn món bánh trứng kiến ở Bắc Kạn: Nhà hàng Tú Thuỷ - TT. Phủ Thông, Bạch Thông, Bắc Kạn
Bánh trứng kiến (tiếng Tày gọi là “pẻng rày”), nguyên liệu gồm: Trứng kiến, bột gạo, lá non của cây vả. Làm bánh trứng kiến việc vất vả nhất là đi lấy trứng kiến về để làm nhân bánh. Trước hôm làm bánh người ta vào rừng tìm trứng kiến. Loại kiến đen có thân nhỏ, đuôi nhọn, đi lại khá nhanh và thường làm tổ trên cây vầu. Tổ của chúng màu đen, hình tròn hoặc hình bầu dục được làm từ lá cây mục và kết chặt vào những cành cây. Kiến này cho trứng lành, cắn không đau và không độc như các loài kiến khác. Dùng dao chặt cành cây có tổ kiến đặt vào chậu hay rá rổ đan dày. Phá tổ, kiến bố mẹ sẽ nhanh chóng bỏ đi, để lại trứng. Dùng tay vỗ tổ kiến cho trứng kiến rụng ra. Tổ kiến to có thể bằng cái mũ. Để kiến bỏ đi nhanh và không tha theo trứng người Tày thường cho thêm mấy cành cây nhỏ vào chậu. Trứng kiến thực chất là ấu trùng kiến, chính vì vậy mà tỷ lệ đạm rất cao, nhiều chất bổ, tuy nhiên một số người ăn có thể bị dị ứng. Một người vỗ trứng kiến một buổi có thể được một vài cân.
Vỏ bánh thì đơn giản hơn rất nhiều, gạo nếp được xay cho nhuyễn và cô thành bột dẻo, những người có kinh nghiệm khi làm bánh trứng kiến thường pha một tỷ lệ nhất định bột gạo tẻ vào chung với bột nếp, chất lượng bánh sẽ ngon hơn. Bên ngoài bọc những chiếc lá vả xanh non để làm áo cho những chiếc bánh.
Nguyên liệu chính để làm bánh trứng kiến chính là trứng non của kiến. Ảnh: Tinker |
Để làm nhân bánh người ta phi thơm hành rồi cho trứng kiến vào rang cho thơm phức và béo ngậy, việc này cũng phải hết sức khéo léo vì nếu quá lửa trứng sẽ cháy nát hết. Sau khi nhân bánh được chuẩn bị xong người ta sẽ tiến hành làm bánh. Bột gạo được dát mỏng vừa phải, dày cỡ nửa phân rồi áp vào lá vả non.
Tiếp đến là cho trứng kiến đã xào rải đều trên mặt miếng bột, sau đó gói miếng bột vào để bọc lấy nhân bánh, để bánh được đẹp hơn người ta cố gắng thật khéo tay để bánh được vuông vức. Cuối cùng là bọc bên ngoài một lớp lá vả bánh tẻ rồi cho vào nồi đồ như đồ xôi độ 30 phút là chín. Theo bà con người Tày đối với bánh trứng kiến không thể thay lá vả bằng loại lá khác. Khi ăn cũng đừng tìm cách bóc tách lớp lá vả non bên trong đi bởi phải ăn cả lớp lá này thì bánh mới bùi và ngon hơn rất nhiều, mà có muốn bóc cũng rất khó bởi lá vả non sau khi được hấp chín đã dính chặt vào bánh.
Top 10 đặc sản Cao Bằng nổi tiếng mà du khách nên thử |
Top 10 đặc sản Hà Giang làm quà ai cũng mê |
Review du lịch Hà Giang: Top 10 món ăn ngon ở Hà Giang |